Phi Vân
ĐỒNG QUÊ PHÓNG SỰ
Phần thứ
nhất - Phỏng Sự Ngắn
Muốn Ăn
Trứng Nhạn
Không biết mỗi bữa
trưa hè oi ả, trời nắng nung người, có ai
nghe người đàn bà Bạc Liêu đưa vơng kẽo
cà kẽo kẹt ru con:
Tháng ba cơm gói ra ḥn,
Muốn ăn trứng
nhạn phải ḷn Hang Mai...
Mà ngao ngán nỗi ǵ không?
Riêng tôi, có một dạo,
đang thất thểu trên đường từ Vĩnh
Châu ra Biền, nghe được câu hát này, tôi thấy thích
thích, đoán chừng rằng Hang Mai có lẽ là ở
miền nào xa lắm. Tôi định có ngày đến
viếng cho thoả ḷng.
Bây giờ tôi đứng
trước Hang Mai!
Cho hay nếu ḿnh chịu
bước chân đi th́ c̣n lạ ǵ với những cái tên
mà ḿnh cứ tưởng tượng nó ở đầu
trời cuối biển nào!
Hang Mai là ǵ?
Các bạn giàu tưởng
tượng đừng cho rằng Hang Mai là một chổ
mà vào mùa đông lạnh, hoa mai vươn cánh khoe vàng!
Không, “Mai” đây chỉ có
nghĩa là quê mùa cổ lỗ ở chốn đồng quê
là... là... Khỉ !
Vậy, Hang Mai tức là hang
của loài khỉ.
Kinh Hang Mai ở làng Khánh Lâm (Cà
Mau) bắt đầu từ Kinh Biện Nhỉ, phía
dưới công sở trổ ra Tiều dừa.
Kêu là “kinh” cho nó oai một chút
chớ nó quanh co như “cửu khúc trường xa!” Nó có
không biết bao nhiêu ngách và không biết bao nhiêu trấp
cản đường.
Ở hai bên bờ,
người ta có thể gặp những con trúc, rái, kỳ
đà, chồn, ong mật và vô số cá.
Tôi được một
lần đi suốt con kinh Hang Mai, và đi một cách
“đàng hoàng” vinh diệu.
Ông Xă trong làng gả con gái
Ông Xă mà gả con gái th́
phải biết, cái đám ấy nó long trọng đến
bực nào ?
Muốn có “cái ǵ” thêm long
trọng hơn nữa, lúc đưa con về nhà chồng,
ông lại t́m ngay chúng tôi:
- Thằng Sáu mầy có tài
ăn nói, thằng Năm mầy có ngón đàn hay, vậy bây
vui ḷng theo tao qua bên “đàng trai” cho “rôm” và để bên
ấy biết rằng làng ḿnh cũng có lắm “nhân tài” !
Tôi ngồi và ṿ ngón tóc:
- Từ đây qua rạch “Bà
Già Sốc” xa quá cậu à ! Vả lại tôi có tật
ngủ sớm, hể thức khuya một chút là muốn
nằm liệt ra rồi !
- Không sao, xuống ghe tha
hồ ngủ, hại ǵ mậy !
- Úy, thần rừng quỉ
bụi đất Khánh Lâm nầy ơi, nhè ở đây mà
cậu bảo ngủ dưới ghe cho muỗi mỏng nó
tha đi !
- Cái thằng! Không mấy
thuở cậu mượn mà lại làm bộ làm tịch
!...
Thằng Năm xen vào:
- Đi mầy, ra miệt biển
chơi, xuống ghe tao đờn cho mầy nghe, buồn
ngủ thế nào được !
Rồi nó láy tôi ra ngoài:
- Mầy ngu lắm, tội
t́nh ǵ mà để “chúng nó” đi riêng một ḿnh !
- Chúng nào ?
- Con Tư ông Chủ, con gái
Bộ Liếm, con Tám, chớ c̣n chúng nào nữa ! Tụi nó
sẽ đi chung với ḿnh một ghe, gục chung với
ḿnh một lượt, chẳng là “sung sướng”
lắm à ?
Đường về rạch Bà
già Sốc dài trên ba chục cây số, phải đi
suốt con kinh Hang Mai dọc ra mé biển.
Đàng trai lại rước dâu
vào lúc mười giờ tối. Lễ xong, chúng tôi cùng nhau
xuống ghe lườn. Đàng trai đi hai ghe, đàng gái theo
hai ghe, một ghe ông già bà cả, một ghe thanh niên. Ai trông
thấy cũng th́ thào khen ngợi, không hỗ danh ông Xă chút
nào.
Tôi mắc lo theo đuổi
lũ con gái, quên coi thằng Năm nó vác cây đờn ḱm
thế nào mà lâu lâu cái thùng đờn khua leng keng leng keng in
như tiếng chuông của thằng Chệc bán bông cỏ.
Vào một đêm không trăng.
Sao đầy trời. Bóng đêm bao phủ nhu bức màn
mờ.Gặp mùa gió bấc, ngồi trong mui chẹt nghe
hơi sương xuống, cũng đủ lạnh lùng.
Thỉnh thoảng ngọn gió
đồng hiu hắt lùa vào khoang gần tắt phụp
ngọn đèn dầu. Bên ngoài, các anh chèo vừa nhịp mái
ăn rập vừa “ḥ khoan” vang dậy.Bên trong, ngồi
đối diện với mấy cô áo máu xanh đỏ, thằng
Năm cảm hứng lên dây Tố lan đờn một
bản Vọng cổ rặt “mùi”.
Tôi bị con ma buồn ngủ
kéo hai mí mắt gần sụp, nhưng sợ gục lên
gục xuống, “con Tám” nó cười, nên rán dềm
vững cái cần cổ. Tuy vậy chút chút cái đầu
cũng gặc qua được một cái như để
nhịp “song lang” giùm cho thằng Năm.
Các cô ngồi thủ thỉ,
lâu lâu chăm chú ḍm thằng Năm đang “hỉnh mũi”
cho mấy ngón tay nhấn vuốt hai sợi dây đờn.
Hố ḥ khoan
Con gái ông Bang
Che dù che lọng,
Con gái bà bóng
Thổi lửa tắt
đèn...
Cà rùm tùm beng.
Hố ḥ khoan
Con đỉa đeo bà,
Con gà cục tác,
Mỏ nhát cầm chèo,
Con mèo cầm lái,
Con rái chạy buồm,
Con tôm tát nước...
Là cái hố ḥ khoan...
- Ghe ai đó ngừng lạI !
Bên ngoài, bỗng có tiếng hét
vang lên.
Tiếng ḥ khoan dứt ngang.
Thằng Năm nhè nhẹ
để cây đờn xuống.
Các cô xanh mặt ḍm giáo giác.
Tôi đang gục lia cũng
hoảng hồn nhảy ra ngoài.
Ba ghe trước đều
buông chèo. Đàng xa hơn, mấy ngọn đuốc sáng ḷa
từ trên xuồng nhỏ nhô ra.
Dưới ánh sáng, mấy anh
chàng lực lưỡng, ḿnh trần trùi trụi, đang
pḥ anh chúa đoàn, bơi ào lại.
- Ăn cướp mầy
Năm ơ i!
Thằng Năm “mẹ
thỏ” vừa nghe tôi kêu cướp đă tuôn ra ngoài phóng
đùng xuống kinh lội vô bờ lủi mất.Các cô run
lên cầm cập sa sầm áp níu lấy tôi. Bụng tôi
đă thấy điếng mà bị “con Tám” ôm ngang cần
cổ lại càng điếng hơn nữa.
- Mấy ghe kia lập tức
ngừng lại, thằng Sàng[1]
ở đây!
Giọng hét sang sảng như
Trương Phi
hét Tào Tháo ở cầu Tràng Bản. Mấy anh chèo bên ghe tôi
khiếp đảm cũng nhảy đùng đùng xuống
nước. Tôi vội thổi tắt đèn, xô mấy cô
nằm rạp dưới khoang ghe, rồi ngóc đầu
lên ḍm.
Bọn cướp lục ghe
dâu rầm rầm.
Nghe tiếng khóc xen lẫn
tiếng hăm doạ, tôi rợn người toan chỗi
dậy nhảy đi, nhưng mấy cánh tay các cô bấu
chặt như sam, không tài nào gỡ nổi.Thôi th́, hoạ
mang, mang lấy cho cùng, tôi chết sững đợi
đến số phận ḿnh.Nhưng... bọn cướp
đă hô “buồm” và mấy chiếc xuồng rẽ
nước bắn đi... Hú vía! Th́ ra họ đă “no hàng”
ở ghe đàng trai, không cần đến chúng tôi
nữa.Tôi lồm cồm ngồi dậy, đỡ mấy
cô áo màu lên. Áo màu không c̣n là màu nữa. Bùn nước trong
khoang ghe đă nhuộm thành rằn ri mất rồi, mà
mấy cô chỉ là những tàu lá đang run.
Không kịp lên tiếng hú coi
thằng Năm núp ở đâu, và đến coi ghe đàng
trước lành dữ thế nào, tôi ngẫm nghĩ
bậc cười nhớ đến câu hát trên
đường Vĩnh Châu:
Tháng ba cơm gói ra ḥn,
Muốn ăn trứng
nhạn phải ḷn Hang Mai...
Châu Xương, cử Thanh Long Đao!
Hồi ấy bạn tôi và tôi
c̣n gơ đầu trẽ để “kiếm xu mua gạo”
trong cái làng mà nghe đến tên, các bạn sẽ rùng ḿnh:
Làng Rạch Cóc! Thằng Năm Quấy (bạn tôi) có tánh
liến thoắng, chưa ǵ đă bàn t́m nơi khác
để sanh phương. Anh ta bảo:
- Thôi đi, ta sợ cóc
lắm, vô trong ấy, buổi cơm nào người ta
cũng ăn toàn là cóc th́ chết đói vẫn hoàn chết
đói!
Nhưng một tháng sau, chúng
tôi đă “quen nước quen cái” với xóm Rách Cóc.Cóc đâu
chẳng thấy, chỉ thấy toàn là thầy Rùa, Thầy
Pháp, ông Đồng, bà Cốt, cô Tư, cô Hai, cô Bảy.
Các bạn đừng thêm: cô Năm Bến Tre,
cô Ba Cần
Thơ... coi chừng cái cần cổ: mấy cổ
vặn họng th́ không khéo phải tốn một con
gỏi...[2]
Ở đây có xác Ông - tức Quan Công – là được
nhiều người rước nhất. Nhưng muốn
cầu Đức Quan Thánh về th́ phải tốn một con
heo: con heo ấy, sau khi lễ đàn rồi, lẽ cố
nhiên là phải về tay ông Xác.Chúng tôi đă được
xem nhiều lân cách chữa bịnh của xác Ông, và lần
nào cũng như lần nào, thấy con heo to tướng
đặt ngay bàn giữa, thằng Năm Quấy cũng
bảo tôi:
- Cái thằng cha xác không
biết nó ăn làm sao cho hết mấy con heo!
Ông Xác làng Rạch Cóc có vẽ
oai nghi đặc biệt mà lúc Ông đă nhập vào rồi
th́ xem c̣n lẫm liệt hơn nữa.
Và lúc Đức Quan Vân
Trường nạt to:
- Châu Xương, cử Thanh
Long đao!... th́ ngài liền tung ḿnh đi một bộ vơ
tuyệt diệu.
Đứng ngoài xem, tôi cũng
phải khen thầm: “Quả thật đệ nhất anh
hùng!” c̣n bao nhiêu khán giả khác đều cúi đầu,
mặt lộ vẻ sợ sệ: “Ông đang cử Thanh
Long đao, coi chừng!” Mỗi khi xem tới khúc ấy,
thằng Năm Quấy thúc hông tôi, bảo nhỏ:
- Châu Xương chưa
kịp cử đao, sao ông hươi sớm thế ?
Tôi trả cái thúc lại,
cũng bảo nhỏ:
- Câm miệng! Coi chừng Ông
vớt trái!
Quên cho các bạn biết chúng
tôi đang ở đậu nhà ông Cả trong làng. Một
hôm, con gái ông đau. Ông Cả vốn là
người không tiếc một con “gỏi”, nên vời ngay
xác Ông đến và sửa soạn nhà cửa cho lễ
đàn tiện bề tiến hành.Gia nhân làm thịt một
con heo đúng tạ. Thằng Năm Quấy lại bảo
với tôi:
- Đấy! Thêm một con
nữa. Mới có ba hôm mà nó đă được hai con
rồi, khoái thật!
Tối lại, gần hết
dân trong làng đều tề tựu trước nhà ông
Cả để chờ xem lễ đàn. Đèn đốt sáng
trưng. Gia quyến ông Cả đều đứng ngoài
nhà trước, chỉ có hai chúng tôi là từ trong ngó ra,
không phải chen lấn ở hạng “cá kèo” như mọi
lần khác. Ông đă nhập xác.Ai nấy đều
đứng im.
- Ta là Quan Vân Trường, Hán
Thọ đ́nh hầu!
Ông lại c̣n nói thêm, nói
nhiều lắm, hỏi nhiều lắm.
Ông Cả vừa run run vái
lạy, vừa lập cập trả lời.
Thằng Năm Quấy th́
cứ mải nh́n... mấy cô gái ở hạng “cá kèo”.
- Châu Xương, cử Thanh
Long đao!
Tôi đang chăm chú xem,
bỗng giật ḿnh đánh thót v́ bên tai có tiếng la:
- Dạ !
Thôi chết rồi, thằng
Năm Quấy làm sao thế ? Ừ chính người lên
tiếng là thằng Năm Quấy, mà thằng Năm
Quấy bây giờ lại cầm dao phay sáng giới từ
chỗ đứng nhăy phắt ra, phùng mang, trợn mắt
múa vù vù xem ghê quá. Trong khán giả, tự nhiên có tiếng
xầm x́. Thằng Năm Quấy múa một ṿng như
Chệc Sơn Đông măi vơ, làm khán giả sợ sệt lấn
nhau lui xa ra.
Không c̣n một cái đầu
nào dám nh́n lên. Thằng Năm Quấy vẫn múa. Tôi
đứng cạnh chỗ xác Ông, thấy ngực lăo ta
phập phồng và miệng lăo ta há hốc. Lúc thằng
Năm Quấy múa gần ông ta, tôi nghe có tiếng bảo:
- Chia hai! Chia hai!
Nó múa thêm một ṿng nữa
rồi qú xuống dưng cây dao ngang mày.
Chụp lấy con dao, mặt
Ông trở lại oai nghi, Ông tung ḿnh đi một bộ vơ
tuyệt diệu.
Khán giả vẫn cúi
đầu.
- Ḿnh phải chia ăn
chớ! Mầy xem, mới có ba ngày mà nó được
những hai con rồi!
Trời ơi, nghĩ
được cái ư ấy, ta sướng quá và phục...
tao quá! Tao không thèm cho mầy hay là sợ mầy cản
trở. Trong lúc tụi nó lục đục ở nhà
trước, tao xuống bếp lấy con dao đem
giấu phía sau tấm vách giữa, rồi tao chực
hờm khi nói kêu “Cử Thanh Long đao” là nhảy ra.
Sẵn trước kia có làm thầy tuồng cho gánh hát Thái
Dương của thằng cha Cống Quỳnh, tao có
học quơ bậy cặp song tô, nên đến khúc
ấy tao chụp dao quậy vù vù cho tụi khán giả
sợ lui ra xa.
Tao biết rồi, thế nào
thằng chả cũng nói với tao một cái ǵ, mầy
bảo có “thánh” lắm không?
Trao thân con khỉ mốc !
Hương Ba càu nhàu: “Cái làng
ǵ mà kỳ khôi quá! Các ông nghĩ: Làm cha mẹ, ai cũng
muốn cho con nó được nên vợ nên chồng,
đàng này họ mảng bo bo mấy cái hủ tục
bắt bẻ từ chút, đ̣i hỏi từ cái lễ
mạn, đă thèm rồi mới chịu gả con gái...
- “Chịu gả” mà có xong cho
đâu! Đây để tới lúc ḿnh tới rước dâu
rồi chú coi, chém chết ông Bái hay ông Tộc trưởng
bên ấy cũng “vặn anh cai Sót đủ điều...”
Ông
Chánh Khá nói thêm một cách chán nản:
- Mà cái xứ ǵ ở xa tí-mù!
Rồi chán nản nh́n hàng cây
mắm ở ven rừng, “giẵm chân” bên bờ sông Ông
Đốc.
Chiếc ghe máy có cái mui
ngạo nghễ, khoe những dâyc ờ lon con, giăng
từ cột buồm ra sau lái.
Tiếng máy chạy śnh
sịch.
Trời về chiều.
Tàu chạy hôm nay nữa là hai
hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh
xáng Thọ Mai, nhưng xóm Kiến Vàng vẫn c̣n xa lơ xa
lắc.
Họ đàng trai đă
mệt nhọc ngồi trong chiếc tàu chật hẹp.
Người ta ăn hết ba lượt bánh ḿ với
thịt quay mua ở Cà Mau. Chú rể ngày đầu c̣n
khăn đóng áo dài, hôm sau đă cổi dẹp lại
một bên, mặc chiếc áo thun giả ngồi ở
trước mủi tàu ngong ngóng, thỉnh thoảng
vươn vai hít không khí rồi cú rũ nh́n lũ trẻ
trong xóm chạy theo tàu trên bờ sông vỗ tay reo:
- Ê! Đám cưới!...
“Đi họ” c̣n có coả ba cô
gái: áo tím, áo xanh, “bọt bê” dài thườn thượt.
Các cô tỉ mỉ từng
chút, luôn luôn sẽ nhặt sống áo và lai quần hàng thẳng
bóng để đôi giày cườm khỏi vướng mà
làm lấm hư đi...
Hôm xuống tàu, ba cô chọn
một chỗ sạch ngồi nói chuyện với nhau khe
khẽ, ai mời ăn ǵ cũng từ chối, thỉnh
thoảng đưa cái bốp đầm lên soi kiếng,
sửa lại cái vành môi.
Nhưng hôm nay, ông Chánh Khá đă vắt cái áo đen trên
vai và gói cái khăn đóng lại; ông chủ hôn Cai Sót đă
nằm ngáp trên chiếc sập con, th́ các cô cũng đành
chia nhau ăn mấy khúc bánh ḿ c̣n sót lại.
Son trên môi đă hoen ố,
phấn trên má cũng phai đi từ khoảng. Chiếc
khăn mù soa đă được nằm trong túi, không c̣n
đeo đẳng với tay nữa. V́ hai bên bờ,
rừng tràm và dừa nước, muỗi nó kêu vang lên
như khát máu, đập bằng tay có hiệu nghiệmhơn,
chớ cầm cái khăn mà chặm chặm th́ nó không
thắm tháp vào đâu cả.
Hương Ba càu nhàu măi, và ngán
lần đến lúc ông phải đem khay trầu
rượu đi tŕnh đàng sui gái...
Năm nay đă gần tứ
tuần, nhưng ông c̣n có vẻ... thanh xuân! Lần này là
lần thứ mười tám ông đi làm rể phụ.
Hễ bọn thanh niên trong làng có cưới hỏi, là
người ta nhớ đến ông, v́ ông đă từ
trải lắm rồi, lại biết đủ tục
lệ.
Ông thường bảo
với bọn trẻ:
- Các cậu đừng
tưởng làm rể phụ là dễ đâu. Để các
cậu lănh vai ấy th́ có mà hỏng bét...
Anh tài công cho hay:
- Khỏi vàm Mang Giỗ
rồi, c̣n hai cái doi nữa là tới Kiến Vàng!
Trời tối đen. Bầy
muỗi tha hồ bu cắn mấy ông đi họ đang
sật sử.
Nhưng người ta đă
giục nhau:
- Sửa soạn mau lên!
Ông Cai Sót hớt hải:
- Mấy giờ rồi,
mấy giờ rồi?
- Mới có mười
giờ. Qua giờ Tư mới đúng.
- Thây kệ, giờ nào,
tới th́ phải lên, đă gần chết rục rồi
đây!
Người ta hấp tấp
sửa soạn. Hương Ba g̣ rẫm khăn đóng cho ông Cai Sót; chàng rể gài khuy cho ông Chánh Khá.
Bà sui trai và hai người
đàn bà đi họ, mấy ngày giam hăm trong chiếc
buồng con đàng sau lái tàu để xới trầu và
xỉa thuốc, bây giờ cũng thấy hăng hái
xếp đặt lại cái hộp trầu.
Ba cô thiếu nữ nheo
mắt lo đánh vội một lớp phấn và rán vẽ
được h́nh trái tim trên đôi môi đỏ óng.
Người ta phủi lại nếp áo, người ta chùi
sơ lớp bụi đóng trên mũi giày. Cây đen tren
lủng lẳng giữa tàu giọi trên vách mấy cái bóng người
đi đi lại lại.Ông Hương Ba đă hờm
sẳn khay trầu rượu xây qua dặn chàng rể:
- Thanh, mầy bưng cái khay
hộp theo tao nhé! Lúc làm lễ, hễ tao đặt khay
trầu rượu ở bàn nào th́ vợ chồng mầy
sẽ lạy ở bàn đó... mà nhớ luôn luôn
đứng bên tay trái nghe, “nam tả nữ hữu”, rán
học cho nằm ḷng! Rồi tiếp:
- C̣n tại thằng Trí,
bưng mâm, khéo lọt mấy trái cam đa, không
được giỡn hớt như ở nhà, ở
đây người ta khó lắm, coi chừng!...
C̣n thằng nào đó, coi qua cái
doi chót th́ nhớ đốt pháo lên ! Tiếng pháo bắt
đầu nổ vang cả xóm th́ xa xa có tràng pháo trả
lời. Trên bờ sông mấy con chó hè nhau đứng
sủa... Tàu ghé bênc ái cầu có nhà mát. Cả đoàn lần
lượt lên bờ và sắp hàng có thứ tự đi vô
sân, đứng đợi.Trong nhà khách, ba bốn ông lăo
đang nói chuyện vang quanh chiếc bàn tṛn trải
khảm đỏ!
Mấy cây đèn sáp rọi
sáng cả gian nhà. Một bọn trai tráng mặc áo dài
đen chạy lăng xăng, pha trà, bưng chén. Họ
đàng trai vẫn đứng ngoài chờ. Hương Ba
nóng ruột:
- Mẽ ! Tại sao không có
người ra mờI ?
Một câu nói trịnh
trọng từ trong nhà khách đưa ra dường như
để trả lời:
- Bây ra ngoài mời họ
đàng trai đứng chờ đấy. Chưa tới
giờ đâu!
Chưa tới giờ! Mấy
tên bưng mâm chán nản. Thằng Trí lầm bầm:
- Đợi tới giờ th́ găy
mẹ cái tay đi c̣n ǵ! Mỏi thấy tổ rồi
đấy!
Ông rể phụ bực ḿnh
ghé vào tai ông Chánh Khá:
- Giượng là trưởng
tộc, rán đối đáp! Bây giờ ḿnh cứ
việc... Tôi sẽ đém dán đôi liễn, rồi th́ ḿnh
xin cưới đặng về cho kịp con nước
một giờ!
Thế là Hương ba
bước liều vô nhà và đến đặt khay
trầu rượu trên bàn giữa. Mấy ông lăo trợn
tṛng.Ông Bái run run, khẽ kéo cái gọng kiếng sụp
xuống chót mũi, đầu nghiêng phía trước, cái
búi tóc lọt ra ngoài lớp khăn đóng, dựng
đứng lên như tức giận, ngó thẳng vào
mặt Hương Ba, dữ tợn. Nhưng Hương Ba
đă chắp tay:
- Dạ... Xin... cho phép tôi... dán
đôi liễn.
- À ! Dán liễn ! Mà đă
tới giờ đâu? Không phải các ông muốn tới
bắt con gài người ta lúc nào cũng
được!...
- Dạ, tôi chỉ xin dán
liễn!
Một ông họ gái già sọm
có cái mép lởm chởm mấy cọng râu ngắn dài không
đều, che mái lưa thưa trên hai làn môi mỏng
đang “hăm” lui tuốt vô miệng để cái càm
lấn nước nhô ra như một lái tàu xà lúp...: làn da
mặt nhăn nhíu khô đét như vỏ cây khô cháy
nắng; tất cả sự sống đều dồn
về cặp mắt loang loáng chỉ nh́n ṿng qua cái gọng
kiếng bằng thau; cái khăn đóng quấn suông hai ṿng,
cao, dầy, để ḷi ở từng thượng
một búi tóc bạc phơ. Cả gương mặt có
một vẻ ǵ vừa lạnh lẽo, vừa gay gắt mà
một đứa bé con thấy được là phải
khóc ngay!
Ông họ ấy đang
chăm bẳm nh́n mọi người với những nét
nhăn không cảm giác, sực lên tiếng khi nghe
Hương Ba nói tới liễn.
- Dán liễn à! Được!
Người ta thoáng thấy
một cái nhích mép đưa nhẹ cḥm râu xéo một bên:
Cười hay gây? Nào ai biết !
Hương Ba ngờ ngợ
nh́n và lanh lợi:
- Ông Tộc trưởng cho
phép chúng tôi dán đôi liễn giao hiếu.
- Đươc. Coi nào!
Không đợi nhắc,
Hương Ba lẹ làng phết hồ lên cột.Ông
Tộc trưởng chậm chạp đứng dậy
cầm đèn sáp nhỏ đi theo xem.Lớp tuổi già
đè nặng trên lưng, nhưng ông cũng cố
gượng ngước lên, tay giơ cây đèn cao khỏi
đỉnh đầu, tay gơ bằng mấy cái móng dài
thườn thượt trên lớp liễn đỏ, ḍ
từng nét, từng chữ một và chậm chạp
đọc:
- Thừa... long... lạc...
ỷ... tam... chi... thọ...
Ông gật gù, nặng nề
bước qua cột bên kia. Ánh đèn làm nổi bật
mấy nét nhăn và chói sáng cả cái “tầng
thượng” trên chiếc khăn đóng: mơi cái gật làm
búi tóc lắc lư như con “lật đật” của
trẻ con!
- Giá... phụng... quan... thành...
bách... lượng... xa!
Rồi bằng một
giọng ngâm trầm bổng, ông lặp lại và phê b́nh:
- Thừa long lạc ỷ tam
chi thọ... Hay!
Giá phụng quan thành bách
lượng xa. .. Cũng hay!
Nhưng mà, ông chủ hôn
ơi! Ông cắt nghĩa giùm thử coi câu liễn nó
thế nào mà tôi “dốt tối dốt tăm” không hiểu
được! Ông lại chép miệng lầm thầm
như tự hỏi:
- Tam chi thọ? Ba nhánh hay ba
họ?...
Ông Chánh Khá năy giờ
đứng rón rén cạnh Hương ba, nghe kêu, vội vàng
đưa tay lên sửa vàng khăn đóng, mạnh dạn
bưới tới biết rằng “chiến cuộc”
đă “khai hấn” và sứ mạng của ông là phải
giữ danh dự cho phe nhà:
- Dám thưa ông Tộc
trưởng, chúng tôi không phải là kẻ thâm nho, tài hèn
chỉ đáng làm môn đệ của ông, nhưng ông đă
dạy, tôi xin mạng phép vâng lời, nhờ ông không
chấp cho chuyện trước cửa Lỗ Ban múa
búa. Tôi có thể thích nghĩa xuôi hai câu ấy ra như
thế nầy:
Chú rể cỡi rồng
nương cây ba nhánh, Cô dâu hỉ hạ t́m đặng
mối trăm xe.. . C̣n dịch nôm th́ tôi nghe ông Đồ
Ướt nhà tôi diễn thử trong câu này:
Rể lành đủ dựa
tài lương đống,
Dâu thảo vui nên bậc
thế quyền...
Tưởng cũng tạm
gọi được là hay vậy. Chẳng hay ông Tộc
trưởng nghĩ thế nào?
- Hay? Tạm gọi là hay? Già
nầy thấp thỏi không biết nôm na cao kiến như
mấy ông, già chỉ biết rằng trong rừng nho
biển thánh, không thiếu chi tiếng dùng, sao lại
đem nào là “thừa long... giá phụng... “ tiếng của
bậc đế vương vua chúa vô làm chi cho tủi
nhục thêm cho con nhà “dân dă” chúng tôi... Chánh Khá xanh mặt:
- Thưa ông...
- Thôi, thưa gởi làm chi
nữa, theo phép mấy ông trầu rượu tới
đây cưới con gái nhà tôi, mấy ông không có quyền
khinh khi quá lẽ... Bây giờ tôi muốn coi đồ
nữ trang trước rồi đợi tới giờ
sẽ hay.
Hương Ba vội vàng
mở khay hộp. Ông Tộc trưởng nâng từ
chiếc ṿng, sợi dây chuyền lên nh́n, bỗng nhiên
mắt ông sáng hoắc lạ thường chép miệng
hỏi:
- Ủa, sao lại có đôi
bông nở mà không có bông búp?
Chánh Khá rối loạn
chực nói, nhưng đă bỡ ngỡ nh́n mọi
người.
Hương Ba lẹ miệng
đỡ lời:
- Thưa bông búp là hồi
“ăn trầu uống rượu” kia. Lời tục
người ta nói: “Bông búp về nàng, bông nở về anh”,
v́ đường xa xuôi quá, chúng tôi đă yêu cầu
trầu rượu cưới hỏi một lần th́
chúng tôi tưởng “bông nở” không, cũng đủ
lễ rồi vậy...
Ông Bái ngồi chăm chỉ
nghe đến đó, bỗng nhiên khóc lên rưng rức:
- Nhà tôi vô phước.
Trời ơi, con làm nhục cha nhục mẹ vậy
hỡi con!... Sanh con tưởng gả được
chỗ môn đăng hộ đối, ai dè họ khi ḿnh
đến đỗi này...
Ông Chánh Khá bị “tấn công” gắt
quá, đành đưa mắt cầu cứu với
Hương Ba lần nữa mà mồ hôi trên trán đă
nhỏ giọt.
Hương Ba chẳng nói
chẳng rằng, ngoắt chàng rễ bước vào, c̣n ông
th́ đến cạnh ông Chánh Khá, láy mắt ngụ ư nói
“để tôi” rồi nói lớn để thay đổi
cuộc diện:
- Đă tŕnh đồ nữa
trang, th́ bây giờ xin lên đèn làm lễ cưới.
Ông Tộc trưởng
trợn ngược cặp mắt, đôi lông chân chày
dửng lên làm tăng vẻ giận dữ, oai nghi:
- Ai cho phép chú cưới? Tôi
bảo đợi tới giờ nghe chưa?
Ông Chánh Khá lập tức trả lời
khéo léo:
- Xin ông Tộc trưởng
thương giùm. Con rể nó ở đời với nhau
được, có phải tại cái giờ đó đâu.
Nếu chờ đến
giờ Tư, con nước chảy ṛng cho đến trưa
mai, th́ chúng tôi chịu ngược cả máy con nước
nữa, chắc chết đói ở dọc đường.
Nhất là cô dâu không quen đi đường trường
bó ró dưới tàu năm sáu bữa, chẳng là tội
nghiệp lắm sao?
Ông Tộc trưởng nín
lặng.
Chánh Khá láy Hương Ba.
Hương Ba hội ư, x́ ống quẹt nổi đèn khay
trầu rượu rồi đưa tay ngoắt một
cái. Đám bưng mâm lục tục kéo vào.
Trong lúc lộn xộn,
Hương Ba lừa dịp kề tai Chánh Khá bảo
một câu:
- Lạy họ xong,
giượng xin kiếu liền, đừng để
trể một phút nào cả. Ḿnh không cần ăn mà
cũng không cần họ tử tế nữa. Chẳng lẽ
họ níu con dâu lại đâu mà sợ.
Chánh Khá làm như lời.
Họ đàng trại đă
thông đồng ăn rập nhau đứng lên một
lượt.
Thấy con ḿnh bị “bắt”
đi một cách “cấp tốc”, bà Bái trong nhà khóc rống
lên như đám ma, c̣n ông Tộc trưởng vỗ bàn
ầm ĩ.
Nhưng, đám bưng mâm
đă vây quanh hộ tống cô dâu, chàng rể xuống tàu
một cách hùng dũng, dẫu phe ông Bái có muốn “phá ṿng
vây”, cũng không tài nào vô nổi.
Mọi người
đều xuống tàu, trừ Hương Ba đang hí
hửng như vừa “thắng trận”, đứng
cạnh Chánh Khá nói nói cười cười:
- Vậy cũng xong! Đó,
giượng thấy chưa, ḿnh phải.... ḿnh phải
cương quyết, phải... tài ba như vậy mới
được chớ!
Bỗng ông Tộc trưởng
trên nhà chống gậy xồng xộc chạy xuống níu
tay ông
Chánh Khá thở hào hển, vểnh râu, sừng
sộ:
- C̣n lễ... “trao thân gởi
ḿnh”, sao không làm hử?
Nhưng Hương Ba
bước vội xuống tàu, mặt đang nở
như hoa, tự nhiên xanh xám lại, kéo đại ông Chánh Khá
theo, cộc lốc trả lời:
- Trao thân... con khỉ mốc!
Anh tài công tàu giựt chuông
mỡ máy...
Cành tre cũ -cặp gị xưa
Tôi đứng núp sau lùm bông
phướn, tay cầm chắc ngọn roi tre, vững ḷng
chờ. Hễ bóng đen nào lao tới nạp ḿnh là tôi
khệng cho một cây, lập kỳ công bất hủ!
Tiếng kêu cướp
rền trời phía nhà ông Bá và tiếng mơ hồi một làm
vang động cả đêm khuya. Bầy chó trong xóm cũng
hè nhau sửa rầm lên dữ dội.
Bỗng trống ngực tôi
đánh lồng lên, tôi vảnh tai nghe tiếng th́nh thịch
từ xa chạy lại.
Bóng người vừa nhô
tới là tôi rán sức b́nh sanh cầm ngọn roi quất
ngang vào ống quyển: Rốp!
Có thế mới
được chớ! Tôi nhào đại vào đống
đen đang té nằm rên dưới đất, ôm
chặc lấy, nghiến răng:
- Chó chết, mày có chạy
đàng trời!….
Nhưng, thiên địa
quỉ thần ơi! Người tôi đang ôm cứng
lại là… một cô gái!
Thôi phen này có nước mà
chết nhục với đời! Tôi rụng rời buông
lỏng nàng ra, hỏi:
- Cô là ai, có sao không cô? Cô
chạy đi đâu làm vầy cho tôi tưởng lầm là
kẻ cướp?
Nàng rên rỉ:
- Chết tôi đi anh ơi,
tôi là con ông Bá đây! Anh làm ơn…. Đem tôi vô nhà… rồi
tôi kể hết chuyện cho anh nghe, mau đi anh,
đừng cho ai biết, mau đi anh!… nàng nói rồi,
oằn oại, nằm thiêm thiếp…
Làm sao bây giờ? Có Phật
Trời nào chứng chiếu cho cả tấm ḷng trong
suốt của tôi?
Giúp người, hại ḿnh,
bây giờ đâu có thể chần chờ măi
được. Rủi thiên hạ xông tới gặp tôi
đang níu lấy nàng, tôimới ăn nói cách nào cho xuôi?
Thôi, rủi đă vương
lấy hoạ, tấm thân bảy thước c̣n kể ǵ,
tôi kề vai vác nàng vô cửa.
Thằng Năm dầu có
ngủ mê cách nào cũng đă thức dậy lục
đục đốt đèn.
Thấy tôi cơng một cơng lù lù
đi vô, nó kinh hăi nhảy lui một bước toan la, th́
tôi đă khoát tay bảo nhỏ:
- Tao đây, câm họng
lại, ra đóng chặt cánh cửa cái, mau lên!…
Nó sững sờ nh́n cái
“sức nặng” trên vai tôi, rồi riu ríu vâng lời.
Tôi đặt “cục nợ
đời” nằm xuống bộ ván trong, lấy dầu
thoa trán cho hoàn hồn, rồi xây lưng ra ngoài, kéo tay
thằng Năm:
- Nguy lắm rồi mầy
Năm ơi! Nghe đằng nhà ông Bá bị cướp, tao
tốc mùng vác cây roi tre ra tiếp cứu, không dè ba chớp
ba nháng, đập nhằm con gái ổng gần chết, tao
lật đật cơng về đây!
- Khốn nạn chưa!
Biết lầm sao mầy không tháo chạy, lại
rước “của nợ” ấy về làm chi, hỡi
Trời!…
- Ai tàn nhẫn như vậy
được mậy? Đă đập cho người ta
ngất ngư, c̣n bỏ chạy là nghĩa lư ǵ? Vả
lại hồi năy, lúc tao ôm “con mẻ”, “con mẻ” năn
nỉ tao cơng về, tao bấn loạn nghe theo, không kịp
suy nghĩ, bây giờ biết làm thế nào?
- “Con mẻ” năn nỉ
mầy cơng về! Rồi mầy cơng? Hừ, làm thế nào
th́ làm, tao bỏ nhà nầy cho mầy ở!
- Tội nghiệp tao mà
mầy Năm, chuyện đă lỡ ra thế này, mầy
phải giúp tao gỡ rối mới được!
- Giúp mầy? nghĩa là cơng
đem trả? Mô Phật, tao không có cái lưng “nghĩa
hiệp” như mầy đâu!
- Không mà! Số là tao chưa
biết ất giáp ǵ hết, mầy lập tức giùm
chạy lại nhà ông Bá coi cho tao hay. Chuyện nầy tao
nghi lắm, tao phải chờ “con mẻ” tỉnh hồn
lại mà cật vấn mới được. Giùm mau
đi Năm!
Thằng Năm lật
đật thoát ra mà vẫn cằn nhằn cẳn nhẳn:
- Ừ, tao cũng “nghi”
lắm, chỉ thương hai cho tao không ăn mà chịu,
rủi thời mang nhục cả lủ cho mà coi!
Tôi đi tới đi lui trong
nhà, bóp đầu suy nghĩ v́ “cục nợ đời”
vẫn c̣n nằm thiêm thiếp, th́ thằng Năm hào
hển chạy vào:
- Tao lạy mầy, tao lạy
mầy, mầy mau đem “con mẻ”, trả chỗ nào th́
trả, không th́ vạ tới nơi…!
- Thong thả mà nói, làm ǵ
rối rít lên như thế?
- Thong thả sao
được, ông Bá vừa bị một người
cầm dao vào hăm hoạ đ̣i giết, rồi nó trói
ổng lại, dắt con gái ông did. Ông la rầm lên, thiên hạ
đang đuổi theo lục soát lùm tum beng ḱa!
Tôi nghe thằng Năm nói,
hồn phi phách tán cứng họng nói chẳng ra lời.
- Bây giờ mầy
đứng “chết trân” đó mà chịu hay sao? Đây, tao
vừa nghĩ được một kế cứu
mầy: Tụi ḿnh áp khiêng “cục nợ” đó ra
đầu ngă ba nầy rồi đồng la lên: “Bớ
người ta! Ai nằm đây!”, cho thiên hạ đổ
lại “rước” con mẻ về là xong!….
Thằng Năm nói dứt
lời kéo xển tôi lại ván nhận đầu tôi
xuống, khiêng “nàng” lên.
“Nàng” vẫn con chưa
tỉnh hẳn….
Đêm ấy, sau khi t́m
được con gái ông Bá, “họ” c̣n bắt
được cả thủ phạm: thằng Tư
Rổ! Nọi vụ đưa ra làng, giao cho Hương
quản làm “ăng kết”.
Trên bàn Hương quản
lại nhà công, một cây dao sắc lẻm để
nằm làm tang vật. Thằng Tư Rổ bị trói ké
ngồi cú rũ ở góc pḥng. Ông Bá khép nép đứng
cạnh đó và một dọc dài chứng cớ…. có
cả tôi và thằng Năm!
Thầy Hương quản là
một người ốm mảnh khảnh nhưng có
một bổ râu dữ tợn, cặp mắt oai nghi, trông
vào ai cũng hết vía.
Thầy ngồi giữa bàn,
ngậm cái ống cối to tướng, nghiêm sắc
mặt, kêu ông Bá hỏi trước:
- Sao, ông hăy thuật
đầu đuôi gốc ngọn cho làng nghé
Ông Bá khúm núm:
- Thưa thầy, cách đây
một năm, tôi thấy thằng Rổ nầy khá
đứa, biết lo làm ăn, nên tôi định gả con
Hai tôi cho nó. Tôi kêu nó về ở rể đúng năm
rồi sẽ chọn ngày lành tháng tốt cho chúng nó nên
vợ nên chồng.
Mấy tháng đầu về
với tôi, nó làm việc lực bạt biết chiều
chuộng tôi, biết lo bổn phận. Không dè khi gần
ngày cưới bỗng thinh nó phát lên làm biếng, làm nhác,
không chịu làm việc nữa, cứ rủ rê bạn bè nó
lại phá gà, phá vịt hoặc thả đi luông tuồng.
Tôi rầy la măi không được, túng tôi phải hăm
nó: Nếu nó c̣n giữ thói đó nữa, th́ tôi tống
cổ nó ra ngoài và không gă con cho nó. Nó vẫn không nghe, tôi
buộc ḷng tôi phải đuổi nó.
Thằng Tư Rổ đang
ngồi, vùng đứng dậy dợm căi, nhưng bị
anh Cai tuần chụp đè cổ xuống, và thầy
Hương quản trợn mắt, làm nó phải ngồi
lại nín khe.
Ông Bá tiếp theo:
- Thế rồi gần tháng
nay tôi tưởng nó về với cha mẹ nó, không dè
đêm hôm, tôi đang nằm ngủ quên giữa ván nhà,
bỗng đâu nó đẩy cửa nhảy xổ vào, phóng
lên ván, câu hai cẳng đè cứng ḿnh tôi, tay đưa dao
hăm doạ: “Ba la một tiếng tôi phụp một cái
rụng đầu!”
Tôi sợ quá năn nỉ nó,
nó không buông, c̣n lấy dây trong áo trói tôi lại, rồi xông
vô buồng bắt con gái tôi đi….
Ông Bá khai rồi đứng
sang một bên. Đến lượt thằng Tư Rổ
được Cai tuần dẫn lại giữa bàn.
- Sao, thằng chó chết
nầy, mầy phải khai cho thiệt! Thầy
Hưởng quản ra lịnh.
Thằng Tư Rổ hằn
học từ lâu, được phép cho nói tuôn ra một
hơi:
- Bẩm thầy, ổng nói
láo! Ổng hứa gả con Hai cho tôi, ổng bắt tôi
về ở rể, đầy tôi như đầy tớ
mà cấm tôi không được nói chuyện với vợ
tôi tiếng nào. Rồi gần đến ngày cưới,
th́nh ĺnh ổng đuổi tôi đi. Tôi năn nỉ
hết lời, ổng cũng không chịu cho tôi ở
lại. Tôi chắc ổng giận tôi chuyện ǵ nên bóp
bụng ra về, định chờ ổng nguôi ngoai
sẽ năn nỉ xin cưới.
Không dè mới đây
người ta cho tôi hay rằng ổng đă kêu thằng Út
ở xóm trong vào ở rể nữa.
Tôi tức ḿnh đón vợ tôi
gạn hỏi. Té ra ổng ép vợ tôi, không cho đi
đâu khỏi nhà. Biết rằng vợ tôi nó cũng
thương tôi lắm, mà ổng th́ độc ác không
thể năn nỉ được, tôi vẫn chiều
ḷng đến lạy lục ổng năm bảy phen.
Lần nào ổng cũng đuổi tôi như đuổi
chó.
Tức quá, tôi mới xách dao
lại hăm ổng, đó là sự bắt đắc
dĩ, xin thầy xét lại cho tôi nhờ.
- Mầy có đè, trói, và
hăm giết ổng không?
- Bẩm có, v́ ổng thấy
tôi, ổng muốn la, tôi đè ổng trên ván và nói: “Nếu
ba không gả con cho tôi, tôi sẽ lấy đầu ba”. Tôi
nói vậy là để cho ổng sợ, ổng gả con
Hai cho tôi, chớ tôi không có ư định giết ổng.
- Được rồI ! Rồi
mầy trói ổng lại và cướp con gái ổng đi
?
- Bẩm, ổng nằn
nằn không chịu, ổng nói rằng tại vợ tôi
muốn vậy. Tức quá tôi phải trói ổng lại,
chạy vô buồng hỏi, và biết rằng có nói cũng
vô ích, tôi đánh liều tính dẫn vợ tôi đi ít lâu
rồi về thú phạt. Đó là vợ tôi chịu theo tôi
chớ tôi đâu có bắt ngang….
Làng làm ăng kết xong,
liền giải thằng Tư Rổ ra quận.
Tôi không chờ biết kết
cuộc ra thế nào, chán cả kiếp sống ở
đồng, nghĩ tủi tấm thân bảy thước
của ḿnh mỗi lần phải đụng đầu
với con gái ông Bá.
Tôi không phải cây cỏ ǵ mà
không biết ơn nàng khi nàng không hề hở môi cho ai
biết vụ tôi đập nàng một cây và tôi cơng nàng
về nhà đêm ấy.
Nhưng mỗi khi gặp nàng
ở đâu là nàng ngó tôi một cách khẩn thiết như
muốn bày tỏ một sự ǵ, rồi nàng ḍm xuống
cặp gị cười mỉm. Tôi hiểu là nàng muốn nhắc
tới ngọn roi tre cũ, nhưng tôi tảng lờ quay
đi…
- Không được mầy
Năm, ở đây rồi phải chết một cửa
tứ! Coi bộ con mẻ… “cảm” tao rồi mầy
ơi.
- Tùy mầy, mầy muốn
sao cũng được. Đi ở là quyền của
mầy. Nhưng tao nghĩ mà tức cười, nếu hôm
trước “con mẻ” tỉnh, và “con mẻ” quyết
nằm ĺ ở nhà ḿnh, th́ chắc “thế cuộc” giờ
đă đổi khác, đâu c̣n cái vụ quấn quít
giữa “cành tre cũ với cặp gị xưa”.
Đổng Trác biết sập giàn
Ghe hát bầu Tèo hôm ấy
đă thấy chèo đến đậu ngay trước
đ́nh làng. Con nít chạy bu theo trên bờ kinh vỗ tay la
rầm rĩ:
- Bầu Tèo ở cù lao Heo
tụi bây ơi !
Đ́nh đang buổi kỳ yên.
Người ta dọn sẵn sàng tất cả, chỉ
chờ ghe hát đến là lên giàn.
Bạn hát được dân
làng phụ giúp, chỉ non nửa ngày là cất rạp xong
đâu đấy. Chiều đến, họ có thể
gióng trống xây chầu. Làng đă nhứt định hát
ba “thứ”, mỗi “thứ” ba chục đồng, tùy ông
bầu chọn tuồng, miễn cho xứng đáng th́ thôi.
Và nếu được vừa ḷng, làng sẽ tuỳ
tiện thưởng thêm là khác nữa.
Làng lại cho ông sáu Lư
phụ đóng thêm một vai trong tuồng nào cũng
được.
Ông sáu Lư là tướng hát rành
nghề. Trong giới hát bộ, đă đành rằng không
đào ké nào là chẳng biết danh ông, mà thậm chí
đến dân làng hễ nghe đến tên ông, là hăm
hở phục tài.
Năm nay ông đă già. Ông có
bộ râu hơi dài và người ông hơi ốm. Nhưng
không v́ thế mà tài ông giảm đi.
Chẳng những ông hát hay mà
ông lại có tánh vui vẻ bặt thiệp, ở cảnh
ngộ nào ông cũng làm cho người ta vừa bụng,
nhất là đám trẻ con trong làng. Hễ chúng gặp ông
đâu là nài nỉ xin ông “đi” cho một bộ Trương Phi
hay Triệu Tử.
Ông ṿ đầu chúng, rồi
sẵn ḷng bẻ một cành cây làm roi ngựa, giả
đáp giáp, hất râu, múa lăn chiêng y như trên sân
khấu.
Ngoài ông sáu Lư,
làng lại cử ông Chánh bái cầm chầu.
Ông nầy lại có cái
đặc biệt khác.
Gánh hát nào đến cũng
phải cậy nhờ ông.
Được một
người cầm chầu giỏi, đúng phép, không tư
vị, biết giục ḷng, con hát mới phấn khởi,
mới hả hê.
Một tiếng “thùng” cũng
đă làm cho họ sung sướng mà hai ba “chầu” liên
tiếp lại c̣n làm cho họ nở ḷng.
Ông Chánh bái trong làng
thường bảo:
- Ḿnh cầm chầu không
đúng đắn, bọn hát nó khi, nhiều khi nó dể
ngươi lờn mặt. Ôm chầu như tôi, tôi
đố đào kép nào dám ra hát “ẩu” đặng lănh
tiền. Không một tiếng trống của tôi cũng
đủ cho họ bị bầu gánh cúp tiền cữ
đêm đó…
Mà thật ông Chánh bái rành
điệu cầm chầu tự hồi ông c̣n ở
chức Hương thân kia lận.
Tiếng đồn ông sáu Lư hát và ông Chánh bái cầm chầu
được truyền đi liền khắp xóm.
Người ta thấp
thỏm chờ đến buổi chiều. Trẻ con
rộn rực đ̣i áo quần, xin xu ăn bánh; các anh trai
tráng nôn nao bỏ giấc nghỉ trưa ở luôn ngoài
ruộng đợi chiều về sớm một chút; các
cô gái, mặt trời chưa chênh bóng là đă lo làm cá
nấu cơm.
Khi tiếng trống “thùng
thùng” nổi lên trên xóm đ́nh, th́ dọc theo bờ
ruộng đă thấy lũ lượt kẻ năm
người ba kéo nhau đi xem hát.
Sân đ́nh trước là
một đám cỏ cao nghều nghệu, chỉ sơ
sơ trong nửa buổi là bị dấu chơn
người giẩm lên sát rạt.
Trước rạp,
người ta dọn dẹp sạch sẽ, sắp
một hàng ghế dài để dành riêng cho các bậc
kỳ lăo và hương chức; kế đó là ghế
của tư nhận. họ khuân từ nhà đem lại,
chen nhau giành chỗ.
Giàn hát cất không
được cao; bên trái là buồng kèn nhạc, bên
phải là buồng của đào kép sắm tuồng. Chính
bên phải là chỗ để trống chầu cho ông Chánh
bái ngồi.
Hai ngọn đèn “măng sông”
được treo ṭn ten trên cao, trước rạp.
Ba hồi trống cơm “tùm
tum, tùm tum” báo rằng đào kép sắp “ra tuồng”, mà
tội quá, đám con nít cứ chen lấn nhau kêu la ầm
ĩ. Chúng trèo níu, đánh đeo ở hai bên giàn coi đàn
kèn và coi các ông tướng vẽ mặt.
Hai anh Cai tuần lănh coi
trật tự đuổi thế nào chúng cũng không
đi. Tức quá, họ bẻ roi quất bổ trên
đầu, trên lưng làm chúng kinh hoảng lấn nhau té đùn
cục.
Nhưng một lát, chờ khi
anh Cai tuần rỏn đi chỗ khác, là chúng lại leo lên
bu xung quanh như kiến. Ông Chánh bái là người hiền
từ thuở giờ, bị chúng chen lấn quá, ngồi
chầu không được, ông phát giẫn dữ phải
giơ dùi trống lên “khệng” cho mấy đứa
đến u đầu.
Đêm ấy hát tuồng Phụng
Nghi Đ́nh. Chính ông sáu Lư ốm tong, bây giờ
động cái bụng to, mặc áo rộng xùng x́nh đóng
vai Đổng Trác.
Mỗi lần ông đi kệ
nệ, vuốt râu, đưa quạt lên trời hất
hất, là mỗi lần người ta la ó dậy.
Lữ bố là một anh chàng
trai trẻ, mặt đẹp như con gái, giắt hai lá
cờ soái hai bên lưng, thắt cái bông tṛn trước
ngực, đầu đội măo kim khôi, tay cầm
phương thiên hoạ kích, oai vệ vô cùng.
Điêu thuyền là cô đào chánh
của gánh hát mặt hoa da phấn, yểu điệu
thướt tha, màu mè cặp bồ với Lữ Bố
thật xứng lứa vừa đôi.
Anh chàng Lữ Bố có cái bộ ghen
tuyệt diệu. Mỗi lần anh hằn học với
Điêu Thuyền là mỗi lần mấy cô ngồi chen nhau
ở “hạng ba” véo nhau gần nhảy nhổm, và hít hà
chắt lưỡi như đám thằn lằn kêu đói
ở trong đ́nh.
Một điều đáng
để ư là sau lưng các cô, đố một chị
đàn bà nào, một ông già bà cả nào, hoặc một
đứa con nít nào bén măng tới được. Toàn là
bọn thanh niên đầu chải bóng láng. Chen chúc nhau
đứng cặp kè. Rọ rạy nói chuyện vang
trời. Đứa thuộc Tam Quốc nói thôi vô số kể,
đứa phê b́nh kép hát, có đứa lại nói tiếng
Tây!
Đă vậy mỗi lần ông sáu Lư
vỗ cái bụng phệ làm cho người ta cười
ngă nghiêng, ngă ngửa, th́ phía ngoài thêm một vài cậu
lừa thế tḥ đầu vô, hai tay vẹt đàn bà con
nít, mắt liếc coi phía nào có mấy cô là chen tới.
Đàng kia, ông Chánh bài đă bổ
dùi xuống làm u đầu năm bảy đứa con nít
rồi, nên chúng tức tối lập thế trả thù.
Chờ đến hồi
“cụp lạc”, lúc Lữ Bố nghe nhảy sấn
lại cắn, véo, đánh yêu Điêu Thuyền, ông Chánh bái
sửa gọng kiếng lại ngay ngắn, ngồi nh́n
chết sững chúng bèn hốt nào cát, nào bụi, nào xác mía
len lén để đầy trên mặt trống.
Ông Chánh bái gặp lúc say mê, vô ư
không ḍm trước ḍm sau, giơ dùi thẳng cánh “chầu”
liên tiếp. Tiếng trống vừa kêu “thùng” là cát,
bụi, xác mía bay tưới lên đầu, lấp mặt
ông. Ông đỏ mặt tía tai, quơ dùi “lia” xung quanh, con
nít té lăn đùn cục, kêu khóc om ṣm.
Nhưng, thiên hạ ai cũng
để hết tinh thần vào lớp “cục” ấy, ông
Chánh bái có làm ǵ, con nít có la bao nhiêu, cũng không ai màng
tới.
Có vài chị đàn bà bồng
con, tay vạch áo đưa vú cho con bú mà mắt chăm
ngay lên sân khấu, hồn gởi trọn cho Điêu Thuyền.
Đứa con ngậm vú không được vùng khóc ré lên.
Chị ta không kể đến, cứ đứng sững
giơ tay đ1nh chan chát vào đít đứa con. Đứa bé
khóc ngất.
Đang hát “cụp” quá mà trời
lại vần vũ kéo mây và trong giấy lát mưa nhểu
hột lâm râm.
Đám người vẫn không
thấy nhúc nhích.
Kịp khi một ngọn gió
lạnh thổi qua, mưa tuôn ào xuống, họ mới
vẹt nhau chen lấn lại gần giàn, có cái mái che cho
hương chức.
Lại càng là một dịp
cho các cậu trai giành nhau xô mấy cô gần ngă sấp.
Tội nghiệp, cô mất
guốc, cô mất giày, vừa lom khom xuống lượm
liền bị chúng ủi té nhủi.
Nhưng mặc, các cô vừa
chửi rủa rùm trời, vừa ṃ ṃ quyết t́m cho
được giày guốc mới nghe.
Mưa lớn quá. Lũ con nít
bu lại hai bên giành, đeo như ong.
Ông Chánh bái không cầm chầu
được nữa; ông đă lạc đâu trong đám
người hổn độn.
Trên rạp, Đổng Trác (ông sáu Lư)
đang giựt cây phương thiên hoạ kích đuổi
theo phóng Lữ Bố, bỗng nhiên đứng dừng
lại kêu to:
- Con nít xuống bớt! coi
chừng sập giàn!
Nhưng mặc ông kêu mặc
ông, con nít vẫn ùa nhau chen lấn và chỉ trong chốc lát
tiếng cây găy răng rắc, dây buộc nghiến c̣ ke,
giàn hát đang rung rinh, bỗng nhiên “vươn ḿnh” như
một kẻ liệt gân rồi “sụn” xuống….
Ông tướng “thầy ba”
Hai người dọn
đồ xuống đ̣ hôm ấy chính là tôi và thằng
Năm. Biết lắm ! nghề ǵ thuộc về “tà
đạo” th́ sớm muốn cũng bị tổ trác ! Tôi
thường bảo thằng Năm như thế, nhưng
chứng nào tật ấy, nó có nghe cho đâu.
Kiếm ăn được
một mẻ “Châu Xương”, nó bắt bén trổ
nghề. Ban đầu trị bịnh con nít, mắc con “sát”,
con “trùng” ǵ ấy, lần lần nó bắt qua chữa
bịnh người lớn. Ai đau ǵ nó cũng trị
được, ai mắc ǵ nó cũng chữa
được. Đó mới là cái… biệt tài.
Mỗi lần thằng Năm
xách “ông tướng Thầy Ba” đi đâu, tôi cũng
căn dặn kỹ:
- Mầy… cho khéo… coi chừng…!
Nó liền trả lời
gọn:
- Bảnh mà !
Tôi có thế nói cách kiếm
ăn của chúng tôi lúc đó cũng hơi bất
lương, nhưng lỡ nghèo sanh kế biết sao bây
giờ !
Mà cũng may, cái thằng
vậy mà “bà cậu độ”, được thiên hạ
hoan nghinh.
Lần nào về thuật
lại cái may, nó cũng cầm “ông tướng Thầy Ba”
vuốt ve rồi hỉnh mặt:
- Ổng linh lắm mầy à!
Lời nói nầy kết
quả ngay ở nhà ông Phối sư Cụt!
Hôm ấy, nó rủ tôi cùng
đi. Nó bảo:
- Con nhỏ đau đó
bảnh lắm, mầy đi với tao lấy hên, biết
đâu khi tao thổi phép cho nó mạnh, ông Phối sư
không cám cảnh gả quách nó cho mầy… hay cho tao ?
- Tao mà làm cái mớ mốc ǵ
mậy. Mầy có công th́ mầy hưởng chớ !
- Ậy, đi, tao làm cho coi mà
!
Thằng nó biết giàn
trận coi cũng khá khiển, phải tay thầy bùa.
Con gái ông Phối sư đau
nằm trong buồng, nói xin giàn trận ngay trong buồng:
- Bịnh tà th́ phải
biết, đem đi đâu được ! Nó bảo
như thế.
Mà thật, cô ấy tối
ngày cứ ợ ngáp, lên lên, xuống xuống. Đang nằm
yên, bỗng la rầm lên một chặp rồi nằm
xuống. Có khi cô nhảy xuống đất đánh vơ
tơi bời, xé rách ten cả quần áo rồi ôm cột
giường mà khóc!
Thằng Năm bảo đó
là một con “tinh” dữ, ở “miền dưới”
muốn bắt cô ta theo nên hành hạ cô dữ quá !
Nó đánh phách với ông
Phối sư:
- Phi tôi, đó thằng cha
thầy nào trị nổi !
Nó đ̣i giấy vàng, sont àu,
bút lông để hoạ phù trấn bốn góc buồng.
Sau khi giắt lá bùa trên lưng
tôi và lưng ông Phối sư cho trấn thủ ngoài
cửa buồng, nó nai nịt gọn ghẻ, một tay xách
cây dao “đan tô” với cái hủ không, thứ hủ
đựng cải tăn-xại, một tay cầm ông
tướng Thầy Ba, nhảy xổ vào bắt tà.
Vừa kéo cửa pḥng cái
rột, nó đóng kín mít lại liền, không cho con tinh có ngă
mà thoát ra.
Trong buồng, thằng Năm
đă bật lên một câu thần chú:
- Án thiên la địa vơng, án
đông binh, tây định, nam, bắc, trung ương
định!….
Đó là nó hét lên để thị
oai, rồi dịu giọng. Mà chính cái lúc nó dịu giọng
mới là lúc người ta ghê ḿnh:
- Hiu hiu gió thổi lộng
đàn tiên, ngày hôm nay sư tướng đến đây,
trên thánh tổ quang minh chứng giám, bủa địa vơng
bốn phương vững chặt, bố thiên la ba cơi
trùng trùng, các hồn nào quấy nhiễu mông lung, phá
dương thế bắt về lập tức….
- Ớ là hỡi âm binh ơi!…
Tôi đứng ngoài nghe
lạnh xương sống, mà ḍm ông Phối sư cùng
người nhà mặt mày ai nấy cũng tái xanh.
- Ớ là hỡi âm binh
ơi!….
Ai có ở vào đêm thanh
vắng, tin tưởng chỗ ḿnh ở có con “tà” đang
lộng, nghe đến đây mới biết cái “ghê ḿnh” ra
làm sao!
Cốt ư thằng Năm là
bắt cho được con “tinh” nhốt vô hũ
“tăn-xại” rồi dán bùa lại, tống đi. Nó
đă bảo trước với ông Phối sư:
- Để tôi bắt
được rồi, ông coi, nó kêu rên trong hũ, xin tha thứ
đủ điều!…
Đến đây tôi mới
hiểu được tại sao trước ngày đó
thằng Năm rủ tôi đi kiếm bắt con “ong
bầu” gần ứ hơi.
Nhưng tiếng thằng
Năm bỗng im bặt, thay vào tiếng giậm chân
rầm rầm dưới đất và tiếng thổi
phèo phèo.
Có lẽ là lúc anh ta trợn
mắt phùng mang thị uy với con “tinh” đặng “xáp lá
cà” với nó.
Tôi đứng ngoài hồi
hộp lạ lùng.
Ông Phối sư chấp tay
vái nho nhỏ:
- Nhờ Đức Thầy,
Trời Phật chứng minh pḥ hộ cho con tôi thoát
nạn.
Bỗng nhiên, trong buồng, con
gái ông Phối sư la lên bài hăi:
- Ái ái, thằng cha thầy chó
nầy, sao mầy dám ôm tao? Buông ra không ?… Buông !… Guốc nè!…
Rồi… bốp… bốp…
tiếng guốc tiếp theo, và sau cùng là tiếng thằng
Năm:
- Chết tôi rồi trời
ơi!…
Tôi cùng ông Phối sư tông
cửa chạy vào. Cô gái đang đứng chống
nạnh cạnh giường thở hào hển, c̣n
thằng Năm th́ ôm đầu ngồi dưới
đất rên h́ h́:
- Ui cha! Con “tinh” dữ quá !
Đêm sau, chúng tôi dọn
đồ, len lén ra đi.
Thằng Năm xách chiếu
đem trải trước mũi ghe, nằm buồn dàu
dàu, thỉnh thoảng tḥ tay khoát nước, nh́n hai bên ven
bờ rạch Ruộng, rạch Ráng, rạch Cui….
Cứ mỗi vàm kinh thoáng qua
là tôi thấy thời oanh liệt của thằng Năm
không c̣n, mà tôi cũng chưa biết làm nghề ǵ ăn
đây nữa.
Tôi lắc đầu nhắc
lại:
- Liệng hắt ông Thầy
Ba của mầy cho rồI ! Đă bảo coi chừng tổ
trác mà mầy cứ dể người, bây giờ có
phải co tay nhịn đói không ?
- Mấy cứ bấy nhiêu
đó nói măi, hèn ǵ không làm nên được danh sự ǵ !
Ván bài hễ không chín th́ bù, đánh “mẹ” nó một tụ,
cho nó ra sao th́ ra !
Ở đời không làm
được Phật, th́ làm ăn cướp chớ có ǵ
mà lo mầy!…
Đạo
Mấy con vạc ăn đêm
đă bắt đầu bay đi kêu oang oác ngoài trời, và
bầy muỗi đă vỡ lên như ong, mà ông chủ Th́n
vẫn chưa thấy lại.
Ngóng măi không được,
Giáo Xệ nóng ḷng mời khách:
- Thôi, quư ngài cứ việc
dùng, ổng lại sau ngồi sau, hơi nào mà đợi
nữa.
- Hay ổng quên? Phó xă Việt
lên tiếng.
- Dễ quên không, tôi sai trẻ
đến nhà mời hai ba lượt, ổng bảo
về, rồi ổng lại kia mà !
- Ổng là người
trưởng thượng, ḿnh ăn trước có khi
hỗn !
- Không hạI ! Tại ổng
trễ chớ có phải tại ḿnh sớm đâu !
Thế rồi họ cầm
ly.
Nhắp đâu được
vài miếng, bỗng dưng Đ́nh Uưnh kêu lên:
- Ḱa ông Chủ lại ḱa !… mà
miệng c̣n nhai dở miếng chả gị to tướng.
Ông Chủ lại thật.
Tay cắp cây dù cán tre, tay xách
bầu rượu với đôi guốc, ông xăm xúi
đi vào.
Con chó vàng nhảy chồm lên
chực sửa, nhưng rồi lui lại gầm gừ.
Giáo Xệ sợ mích ḷng, khúm
núm:
- Bẩm Chủ, chúng tôi
đợi măi không thấy chủ lại, sợ Chủ có
việc nhà, nên chúng tôi vô phép nhập tiệc trước.
- Ậy ! hề hấn ǵ
đâu, hễ “ tiền đáo tiền toạ, hậu
đáo hậu toạ ”, thảo với nhau đủ
rồi. Bị đợi thằng nhỏ nhà đi lấy
bầu rượu “ đám đế ” nầy đây nên
mới trễ dữ vậy. Đây, các ông “nhấm” thử
mỗi người một ly coi, cái nước nhứt nó
ngon kỳ ngon cục !
Ông rót một ly đầy
rồi chễm chệ ngồi xuống ghế đầu
bàn.
Giáo Xệ chạy lăng
xăng, bưng ly rượu chát lễ phép:
- Mời Chủ tráng miệng
bằng thứ nầy ! Thỉnh thoảng lại giục:
“ Mời Chủ !”.
Nhậm lễ xong, ông Chủ
gật gù, miệng chấp chấp, tay vuốt mấy
cộng râu mép c̣n đọng vài giọt rượu lấp
lánh dưới ánh sáng của ngọn đèn toạ
đăng.
Đ́nh Uưnh vừa nheo mắt
vừa ngoạm thêm cái đùi gà xé phay; pháp sư Nẫm ngó
chăm chăm chai rượu đế, lắng tai
chờ ông Chủ nói chuyện.
Nhưng ông Chủ
dường như quên khách v́ ông đang bận “ngậm”
cái cu-lẳng để nút cho hết nước cốt.
Bổng dưng ông dừng ngay
lại, nh́n về cuối bàn:
- Úy chà ! Bữa nay có thằng
Phó xă nữa chớ. Thằng siêng quá, mầy ở trên
Đồng Cộ hay giỗ hồi nào mà xuống đây
mậy ?
Phó xă vui miệng :
- Bẩm Chủ, tôi theo
màng-màng mở trôi trong rạch mà t́m tớI !
- Vậy mà năy giờ mầy
nín khe; tao nghe tiếng đồn mầy nói chuyện
“nghĩa lư” khá lắm mà ! Lên đây Phó xă, lên đây ngồi
chung với tao. Tục ngữ người ta nói: “ Hễ
rượu vào th́ lời ra ”, nín khe đâu có
được mậy ! Tao rất ghét người nào
ở theo sách, bắt chước nào là “ tửu trung
bất ngữ chơn quân tử, tài thượng phân minh
đại trượng phu ” ǵ đó !
Cái giọng ông Chủ đă
“giàu” thêm lên bằng tiếng ngừ nghè và câu chữ
được ông kéo dài thậm thượt.
Phó xă việt khép nép kéo ghế
lên ngồi:
- Bẩm Chủ, thiệt t́nh
là tôi không dám, v́ trong anh em đây, có chủ là người
trên trước, tôi phải kinh nhường. Bởi trong
câu chuyện có tôi phải kính nhường. Bởi trong câu
chuyện có nhiều nguồn chân lư, mà chân lư là lẽ
phải, không tư vị ai được, tôi nói, e có
điều ǵ không tốt. Vả, người ta
thường bảo “trung ngôn nghịch nhĩ”, mà tôi th́ tôi
vị chân lư chớ không vị quyền hành thế lực
lớn nhỏ ǵ ráo, sợ trong khi biện bác, có
điều ǵ xúc phạm đến Chủ chăng, nên tôi
xin “thủ khẩu như b́nh” mà nghe Chủ!
- Thằng Phó xă mầy lầm
rồi, mầy há chẳng biết hồi tao c̣n “
đương vị hành chánh ” mà c̣n không bao giờ “ ỷ
chúng hiếp cô ” hay sao ? Huống chi ngày nay đă “cáo lăo
hồi gia” rồi, tao càng trọng lẽ phải hơn
nữa. Mà hễ vào đám tiệc rồi, ai cũng có
tự do đàm luận, làm người quân tử không câu
nệ ǵ ráo. Mầy không nghe “ Quân tử bất oán thiên
hề bất vưu nhân” à ?
- Bẩm Chủ, hễ
“nhứt ngôn thuyết quá” th́ “tứ mă nan truy”, tuy nói
vậy mặc dầu chớ tôi có điều ái ngại.
Trong lúc đàm luận, Chủ là bề trên, tôi là bề
dưới, tài học tôi kém cỏi không nói ǵ, sợ
rồi khi lư lẽ tôi hơn th́ khó coi quá !
- Quyền chức lớn
nhỏ không kể, người ta chỉ kể tài
đức. “Dũng bất quá thiên, cường bất quá
lư”, Phó xă mầy đừng lo, tao biết điều
lắm….
Ông Chủ kết thúc mỗi
câu bằng một “nhấm” rượu và một cái
cười… gay gắt, nó tăng vẻ gay gắt của
một cái mặt nhiều nét nhăn mà phút chốc đă…
hồng hào !
- Vậy thôi cũng
được, nể ḷng Chủ cho phép tôi xin vâng lời.
Vậy chủ hăy cạn ly rồi Chủ ra đề tôi
mới dám nói, chớ lạm xạm đă không ra ǵ, mà có khi
mấy ông đây c̣n cho tôi… say là khác !
Pháp sư Nẫm năy giờ
ngồi nghe khoái chí, ực một hơi ba ly rượu
đế, chấp chấp ngon lành rồi cầm rót thêm ly
ḿnh và ly khách.
Đ́nh Uưnh cứ ngồi gắp
măi dĩa thịt rừng nhâm nhi, tự do như ở nhà
ḿnh.
Ông Chủ Th́n uống cạn
ly, mỉm cười:
- Hay! Hay! Thằng Phó xă coi
vậy mà ăn nói lưu loát quá. Thôi, đề đạt
ǵ cho mất công, chúng ta là nhân loại, lấy “đạo”
làm đầu, thằng Phó xă mầy “ngôn ngữ như
lưu” chắt nghĩa thử chữ Đạo nghe chơi !
- Bẩm Chủ, bề nào tôi
cũng là kẻ hậu sinh vậy xin nhường chủ
giảng trước cho nghe, rồi tôi sẽ tuỳ theo mà
phụ hoạ !
Uống cạn ly nữa, ông
Chủ khề khà:
- Thôi… cũng được!…
Về chữ Đạo thật là khó giải. Phần th́
chữ nho mắt mỏ, tuỳ theo sở học của
người cao thấp, khó mà nói cho rành, phải không a…
mậy Đ́nh ?
Đ́nh Uưnh đang mê ăn,
giật ḿnh ngước mặt toan trả lời, th́ ông
Chủ đă tiếp :
- Nhưng vậy, có lần tao
nghe sư Muôn giải nó như vầy: “ âm dương
hiệp nhứt, tự ḿnh tẩu ”, nghĩa là: chữ
Đạo có hai chấm phết trên là âm dương, gạch
ngang là hiệp nhứt, dưới có chữ tự là
tự ḿnh, bên là chữ chỉ phảy ngang sư Muôn do cái
phết dài gọi rằng: “tẩu…” Tẩu của ổng
có nghĩa là tự ḿnh chạy chọt t́m Đạo mới có
Đạo ! Tôi cho rằng giải chữ cũng có một cái
điềm, chớ không, sao sư Muôn bây giờ phải
tẩu ngược… tẩu xuôi… đúng không mậy Phó xă ?
Nhưng tao th́ khác, tao cho
rằng “Âm dương hiệp nhứt tại mục”.
Phết xuôi và chữ mục dưới, không phải
tại mục là ǵ ? Ḿnh là con người, có cặp
mắt, có tinh thần tỏ rơ để ḍm ngó, để
phân biệt chân lư, thế là biết Đạo rồi chớ
ǵ…!
Cho rằng giải
được như thế là cao kỳ, ông Chủ cười
chúm chím, rót uống một hơi ba ly để
thưởng… ḿnh !
Bên kia đối diện,
củng không kém, các ông khách ngồi mê mang, cứ mỗi cái
gật đầu của Pháp sư Nẫm là mỗi
lần bầu rượu vơi đi một ít, và mỗi
cái gắp của Đ́nh Uưnh là liền theo một tiếng
“trót” ngon lành.
Riêng ông Giáo Xệ chủ nhà, đă yếu
rượu mà rán theo cho kịp mấy ông khách gần
hụt hơi.
Bỗng Phó xă Việt
cười khè:
- Xin lỗi Chủ, sư Muôn
giải chữ Đạo trật lất, c̣n Chủ chiết
tự ra càng… sái nát hơn nữa!
Ông Chủ giật ḿnh, mặt
đỏ gay gần như tái lại. Ông trợn mắt:
- Thằng Phó xă mầy nói sao ?
Tao giải trật à ? Tao mà trật ? Ừ, chữ nghĩa
mầy già hơn, giảng thế nào cho trúng nghe thử !
- Bẩm Chủ, tự nhiên
chê được là giải được. Chủ
đừng quá nóng. Tôi đă nói “nghĩa lư không tư
vị” kia mà ! Đây, về chữ Đạo, th́ tôi tự thích ra
như vầy:
Hai chấm phết là âm
dương, gạch ngang là hiệp nhất, dưới
chữ tự, bên chữ chi phảy, là “Tự ḿnh chi
đó” !
Tự ḿnh thông tri âm
dương, biết phân phải trái, biết lẽ chánh tà,
mới phải Đạo hoàn toàn chớ ! Ấy là tôi chỉ
chiết tự sơ sơ như thế, chớ nếu
phải giải cho rành th́ phải chắt nghĩa tại
sao chữ Đạo có liên tiếp đến mười hai
nét, mười hai hội của khí vận tuẩn
hườn, từ “tư, cửu” chí ư “tuất hợi”…
Phó xả Việt như
hừng chí, hăng tiết cắm đầu nói, nói măi quên
ḍm sau trước, chừng trực nh́n lại mấy ông
khách và chủ nhà, anh ta trợn tṛng, dứt ngay: Kẻ
gục qua, người gục lại, riêng Đ́nh Uưnh đă
ngoẻo đầu ngáy kḥ kḥ…
Đêm đă về khuya.
Người nhà đều ngủ mất, xa xa có tiếng
chó sủa ở đầu làng.
Ông Chủ đang ngửa ḿnh
sau thành ghế ụa ra một tiếng rất lớn,
rồi chúi nhủi xuống bàn cố gượng:
- Đạo ! hay… hay…! Bọt phe
thằng Phó xă ! Bọt phe thằng Phó xă !…
Quỷ Vương
Làng Thới B́nh nép ḿnh trong cḥm
dừa xanh rậm. Vài xóm nhà lá leo heo ở dọc theo
bờ kinh nhỏ, yên tĩnh với tháng ngày.
Cứ mỗi buổi sáng là
đàn ông, đàn bà lẫn cả con nít vác cuốc ra
đồng, quanh năm làm bạn với mấy mẫu
ruộng nhà, vài công rẫy khóm[3].
Ở đầu kinh thông ra
ḍng sông Trẹm, một cái chợ nho nhỏ nổi lên. Hai
bên, hai dăy phố ngói dứng sùm sụp chịu đựng
với nắng mưa gần như xiêu vẹo.
Đấy là nơi chứa
đựng một phần dân chúng trong buổi sáng,
đấy là nơi người ta t́m những thức
ăn, vật dùng.
Cứ độ hai ngày, con tàu
Rạch Giá ghé ngang đem lại nhiều hàng hoá ở
thị thành.
Mỗi lần tàu xúp lê đàng
xa, là thiên hạ nhao nhao ra đón, chen lấn ồn ào.
Rồi mỗi khi tàu đi, chợ tan, làng Thới B́nh yên
tĩnh lại.
Ḍng sông Trẹm lững lờ
trôi ngang và ban chiều, trong cḥm dừa xanh ấy, mấy
làn khói trắng bốc lên…
Người đàn bà xong
việc bếp núc, ẵm con ra đợi chồng về,
lâu lâu đuổi bầy gà đang bươi trên giồng
rau cải.
Nhưng hôm nay, hai bên bờ
kinh nhộn nhip khác thường.
Trước mỗi nhà,
người ta đứng quanh nhau bàn tán, mặt
đầy vẻ lo âu: Quỷ vương !
Chỉ một tiếng ghê
gớm ấy cũng đủ làm cho mọi người
sợ hăi.
- Quỷ vương sẽ
hiện lên và đi ngang con kinh này !
Bác tư Bốn chạy dài
theo xóm dặn:
- Coi chừng ! Đừng cho con
nít ra bờ kinh.
Người ta cố dấu
nét lo trên mặt, cố trấn tỉnh bảo nhau:
- Quỷ vương th́
Quỷ vương, sợ ǵ ?
Nhưng họ vẫn th́
thầm: “ Trời ơi ! Rủi nó ghé lại làng ḿnh...?”
Phút hồi hộp đă
đến. Họ nín hẳn. V́ đàng xa, giữa con kinh,
Quỷ vương đă đến trên chiếc ghe
lườn không mui.
Quỷ vương gồm có
năm “ông”, ở trần trùi trụi.
Giữa trời nắng
như đốt, họ b́nh tĩnh vui đùa như
chẳng quan tâm đến thiên hạ đang lấp ló trên
bờ. Chốc chốc, mấy “ổng”, lại thi nhau
nhảy đùng xuống nước, rồi lại leo lên
ghe.
Ban đầu người ta
tưởng Quỷ vương phải là ghê gớm
đến bực nào, nên họ nhút nhát nhốt kính đàn
bà, con nít trong nhà. Nhưng chỉ chốc lát, nỗi lo sợ
tan mất, con nít chạy ùa được ra ngoài bờ
sông, vỗ tay reo ầm ĩ. Có đứa dám đưa tay
ngoắt:
- Ê ! Quỷ Vương !
Bác tư Bốn tức
giận hơn ai hết. Bác chạy đầu này
đầu kia, chở hào hển phân trần:
- Khốn nạn quá! Có
thằng Chột con ông Bính và con Út con chú Phó Cao trong đám
ấy nữa.
Rồi ông hăm:
- Phải có súng, tôi bắn
đứa một phát cho ĺa đờI !
Quỷ Vương ghé lại
chợ Thới B́nh với những gương mặt
đầy kiêu hănh.
Chợ Thới B́nh không c̣n
vắng lặng như xưa.
Người ta lấy làm
lạ sao thằng Chột con ông Bính lại đổi tên
là Hoàng Hoa, lần lần thằng Phinh cháu ông Phó Tám đổi là Tuấn Nghĩa,
thằng Tích em Tuần Danh là Vân Mộng, cho đến con
Đẹt con gái chú Phồi cũng xưng là Thuư Liễu và con
Út con ông Phó Cao
là Kiều Nga.
Chúng thường đi
cặp từng năm lũ ba thả rều quanh chợ
bất cứ đêm ngày, và hễ gặp nhau là cúi
đầu rất sâu, ch́a tay ra siết chặt:
- Vân Mộng xin kính chào
Kiều Nga !
Hay:
- Thúy Liễu nầy đa
tạ huynh ông Tuấn Nghĩa !
Rồi họ cùng nhau bàn tán
vang trời những tiếng Văn minh, Hủ Lậu,
Nữ quyền, Giác Ngộ, v.v…
Cứ mỗi lần như
thế, là người hai bên phố kêu nhau ra chỉ,
trề môi, lắc đầu.
Bác tư Bốn càng giận
thêm. mấy hôm rồi bác ăn không ngon, ngũ không yên.
Mỗi khi nghe ai thuật những cái lố lăng của
tụi ấy, bác trợn mắt lên, cung tay đập
xuống bàn th́nh th́nh:
- Tức lắm! Tức
lắm!
Bác hội một vài bực
tai mắt trong làng lại, t́m cách bài trừ:
- Tôi nhất định không
để bọn nó làm lộng trong chợ Thới B́nh !
Sáu Mạnh, người
lối xóm bảo:
- Tôi thường thấy chúng
nó tụ hội ngoài đầu cầu để uống
rượu và hát xướng !
Một người khác:
- Uư mẹ ơi ! Con gái đâu
mà làm chuyện nhục nhă như thế được! Tôi
thấy con Út cặp tay chúng đi nghều nghều và có
rủ tụi nói đi về nhà nữa !
Tội nghiệp chú Phó Cao vô
phước, mắc ở trong rẫy, đâu có hay con gái
chú tác tệ như vậy !
Bác tư Bốn quyết
định:
- Tôi phải lội vô rẫy
kêu chú Phó Cao về, lừa khi lũ nó nhóm họp tại nhà
chú, tôi giúp sức với chú hạ lũ nó cho kỳ
được mới nghe!…
Thế rồi một buổi
chiều. Làng Thới B́nh ch́m đắm trong bóng hoàng hôn.
Ḍng sông Trẹm chỉ c̣n văng vẳng tiếng ḥ
của một vài khách thương hồ.
Trên bờ kinh, ba bóng
người đang rảo bước về phía nhà chú Phó
Cao.
Chú Phó Cao – V́ chính chú -
nghiến răng tức tối:
- Tôi không hiểu con Út làm ǵ mà
quen với bọn nó ?
Bác Tư Bốn châm dầu:
- Làng Thới B́nh mang tiếng
là khởi mầm làm tồi phong bại tục đi
rồI ! Trời ơi, mỗi lần tôi thấy con
Đẹt hay con Út nó bắt tay thằng đầu
đảng Minh Tâm hay Minh Tánh ǵ đó, tôi gần như sôi
gan lên !
Sáu Mạnh thêm:
- Mà cũng độc, con trai,
con gái làng nầy tưởng như thế là “văn minh”
nên mê như chết !
Một người một câu
cũng đủ làm chú Phó Cao cháy ruột:
Tôi ghé nhà Thủ bổn
Tịnh mượn ba cây chổi chà, hai ông giùm phụ
lực với tôi quét sạch cḥm ong lũ kiến này
đi.
Trời đă tối mờ.
Con chó vàng nằm trước
sân nhà chú Phó Cao chực sủa, nhưng chú đă chắt
lưỡi nhè nhẹ, vỗ đầu nó, vuốt ve nó cho
nó không lên tiếng rồi kéo sáu Mạnh, tư Bốn vào hàng
ba.
Chú rón rén lại ḍm kẹt
cửa.
Con gái chú đang ngồi chung
với ba bốn đứa con trai, lạ có, quen có,
mạnh dạn bưng ly rượu hô hào:
- Mời các đại huynh hăy
uống hết ly rượu này, để chứng
kiến lời tuyên thệ của tôi. Tôi hứa sẽ làm
sao đánh thức các hàng nữ lưu ở làng nầy
rỉnh dậy, để được tiến theo
kịp làn sóng văn minh các đại huynh nghĩ như
thế nào ?
Một thằng con trai lạ,
ngồi đầu bàn đứng dậy:
- Vạn tuế bạn
Kiều Nga! Bạn nói rất đúng. Phải xua
đuổi cái hủ lậu đi, phải đưa tŕnh
độ chúng lên cao. Phải cổi dây xích của gia
đ́nh đang trói chặt họ, phải vứt đi
không chút ǵ mến tiếc!
Một tràng pháo tay nổi lên.
Máu giận chú Phó Cao tràn lên óc,
không c̣n sức lức đứng nghe nữa, chú tông
cửa kéo tư Bốn, sau Mạnh xông vào, quơ chổi
vừa đập bừa vừa hét:
- Đây ! Văn minh đây !
Hủ lậu đây !….
Thấy mặt chú Phó Cao,
tất cả hoảng hốt, chưa kịp đứng
dậy, đă bị một trận đ̣n chổi như
băo táp.
Chúng xôn xao, té lăn ra, ḅn càn,
mạnh ai nấy kiếm đường tẩu thoát.
Bác tư Bốn quơ
chổi lia lịa, la rầm lên:
- Bớ làng xóm, bớ
người ta, tiếp bắt Quỷ vương !
Bao nhiêu chó trong làng hè nhau ra
sủa làm huyên náo một góc trời.
Đàng xa, tiếng mơ nổi lên
vang lừng… Những ngọn đuốc sáng loà trong đêm
tối, như sao băng, chạy dồn về tiếng
kêu cứu.
Minh Tâm thoát được ra ngoài,
hồn phi phách tán, lăn xả theo Vân Mộng kêu khe
khẽ:
- Vân huynh, Vân huynh ! Đợi
đệ theo vớI !…
Làng Thới B́nh từ hôm
ấy yên tĩnh lại trong cḥm dừa. Những làn khói
trắng trong mấy mái nhà lá nhẹ nhàng bốc lên buổi
ban chiều.
Ḍng sông Trẹm lững lờ
trôi vắng lặng.
Tiếng ḥ trong đêm vắng
Thầy ơi thầy, dậy
mà nghe con nhỏ nó ḥ!
Tôi giật ḿnh giụi mắt
hỏi anh chèo: “Tới đâu rồi anh ?”
- Dạ, vừa qua khỏi vàm
Rạch Bần !
Tôi chồm ra ngoài nh́n cảnh
vắng. Bên vàm, hàng dừa nước âm u lâu lâu thấy le
lói một ánh đèn; bên bờ kia thỉnh thoảng nghe
tiếng chày giă gạo, tiếng chó sủa đêm.
Đêm nay chỉ có vành trăng hai
mươi, nhưng sao đầy trời góp ánh sáng lại
làm cho cảnh vật thêm ảo huyền thơ mộng.
Một làn gió nhẹ thoảng
qua, tâm thần tôi thêm khoái sảng.
Vẳng xa, những giọng
phù trầm êm ả của một điệu ḥ mê ly,
đặc biệt chốn đồng quê, rơ lần trong
lặng lẽ.
- Anh chèo ơi, lơi mái
đợi họ lại gần, đi cho có bạn và nghe
ḥ chơi anh !
- Xin lỗi thầy, nghe
giọng ḥ của “con nhỏ” tôi đă rụng rời,
lơi mái tự năy giờ. Thế nào tôi cũng lên
tiếng.
- Anh cũng biết ḥ nữa
sao ?
- Điệu nghệ mà thầy!
Nói ǵ gặp phải tri âm, thức ḥ mấy đêm cũng
không biết mệt.
- Ừ ! Ḥ đối đáp
nghe chơi, mà anh phải rán làm sao chớ để thua con
gái, nhục lắm!
- Dễ không, để tôi
bắt trớn cho thầy coi mà! Ḱa, nó đă lại
gần, tôi phải giáo đầu “nhập đề”
mới được.
Ḥ hớ ờ ơ…
Bạc với vàng c̣n đen
c̣n đỏ,
Đôi đứa ḿnh c̣n nhỏ
thương nhiều,
Vừa nghe tiếng em là anh
muốn như anh Kim
Trọng thương chịu
Thúy Kiều thưở xưa… ơ…
Ḥ xong, anh ta đắc chí:
- Đó thầy coi, thế nào
rồi nói cũng trả lời, “điệu nghệ
gặp nhau, là mầy tao quấn quít” !
Giọng phù trầm ngừng
đi một chặp. Chúng tôi yên lặng chờ. Quả
nhiên không sai lời anh chèo nói: “điệu nghệ gặp
nhau, là mầy tao quấn quít”, tiếng ḥ lại nổi
lên:
Ḥ hơ… ớ người
không quen ơi,
Nghe anh, em cũng muốn
thướng nhiều,
Nhưng hoa đà có chủ, khó
chiều dạ anh.
Anh chèo xoa tay trả lời
tức khắc:
- Ḥ hơ… chim kia c̣n thỏ
thẻ trên cành,
Nghe em nói vậy, dạ không
đành rẽ phân….
Giọng trầm cũng không
chịu nhịn:
- Ḥ hơ… B́nh bồng ở
giữa giang tân,
Bên t́nh, bên nghĩa, biết
thân bên nào?…
Anh chèo rối rít:
- Đó thầy coi, ngon chưa?
Trời ơi, cái giọng đáng yêu làm sao!….
- Ḥ hơ, ớ em ơi…
Nhứt lê, nh́ lựu, tam
đào,
Bên t́nh bên nghĩa bên nào
cũng đồng thân.
Rồi anh lắng tai chờ.
- Ḥ hơ, mới mà chơi
vậy chớ: Gió thổi hiu hiu, lục b́nh trôi riu ríu. Anh
đừng bận bịu, bớ điệu chung t́nh, con
nhạn bay cao khó bắn, con cá ở ao quỳnh cũng khó
câu…
Anh chèo đă thấy
đỗ mồ hôi, nuốt nước miếng anh
bảo với tôi.
- Không được, tôi
chưa hề gặp con nḥ nào ḥ “chiến” như con
nhỏ nầy, nó làm bộ có chồng để thử
ḿnh, rồi bây giờ lại làm cao, nếu ở ḥ cù cưa,
thế nào cũng bị nó “hạ”. Vậy tôi phải
trổ hết nghề đem điệu ḥ dài ra “tấn
công” cho nó hết “ứ nhựa” hoạ may nó mới
“xếp giáp quy hàng”.
- Ḥ hơ… Ớ nầy em
ơi, em hăy nghe cho kỹ: xưa nay gái không cưới
chồng, trai không ở goá, đoái thấy nàng xinh đă quá
xinh. Buông lời vừa vỗ vế non, nếu như nàng
lo việc cháu con, sao không kiếm chốn trao thân gởi
thế?
Trên đời bá công bá
nghệ, dưới lại là tứ thú tứ dân. Làm
người sao khỏi chữ lương nhân, mà nàng
chịu để pḥng không ở goá? Sách có chữ rằng phụ
nhân nan hoá, ít kẻ yêu v́. Nên lấy chồng phải
luận phải suy, phải xem trong lóng đục, đây
đă đến phải thời phải lúc… Ḥ hơ… hay
nàng c̣n cúc dục cù lao… Để anh ngơ ngẩn ra vào,
thầm yêu trộm nhó dạ nào bỏ anh?
- Đó thầy coi, thế nào nó
cũng chết ngất, điệu ḥ dài phải
đối dài, ngắn đối ngắn, nó mà đáp
được kỳ này, th́ tôi cũng cam giải nghệ
cho rồi….
Tôi giục: “Ḱa nín, nó đă
đáp liền kia!”
- Ḥ hơ, ớ nầy anh nó
ơi, số phận em giao phó cho trời xanh, lấy anh, em
không lấy nhưng cũng không đành làm ngơ. Ḥ hơ…
vốn em cũng chẳng bơ thờ, em đă hằng
chọn trong lóng đục, nhưng vẫn c̣n ngờ
nợ duyên. Ḥ hơ… vốn em cũng muốn lấy ông
thầy thuốc cho giàu sang, nhưng lại sợ ổng
hay gia hay giảm; em muốn lấy ông thầy pháp cho
đảm, nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc;
em muốn lấy chú thợ mộc, nhưng lại sợ
chú hay đục khoét rầy rà; em muốn lấy anh
thợ cưa cho thật thà, nhưng lại sợ trên tàn
dưới mạt; em muốn lấy người hạ
bạc, nhưng lại sợ mang lưới mang chài; em
muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai, nhưng
lại sợ ảnh hay đào hay bới; em cũng
muốn chọn anh thờ rèn kết ngỡi, nhưng
lại sợ ảnh hay nói tức nói êm; ảnh hay cà
riềng cà tỏi; em muốn lấy ông nhạc công cho
giỏi, nhưng lại sợ giọng quyển giọng
kèn; em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn, nhưng
lại sợ nhiều điều thá ví; em muốn lấy
anh lái buôn thiềng thị, nhưng lại sợ ảnh
kêu rêu mắt rẻ khó ḷng; em muốn lấy anh thợ
đóng thùng, nhưng lại sợ ảnh kêu trật
niền trật ngổng; em muốn lấy ông Hương
ông Tổng, nhưng lại sợ việc tróng[4]
việc gông; em muốn lấy anh gánh tay không, nhưng
lại sợ treo đầu quảy; em muốn lấy chú
hàng heo khi năy, nhưng lại sợ chú làm lộn ruột
lộn gan; em muốn lấy anh thợ đát thợ
đan, nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải
bắt lỗi; em muốn lấy anh hát bè hát bội,
nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng; em
muốn lấy anh thợ đóng xuồng, nhưng lại
sợ ảnh hay đằn hay thúc… Ḥ hơ, mấy lời
trong đục chẳng dám nói ra. Có thầy giáo tập trong
làng xa, hay dạy răn, so đức hạnh ai bằng,
lại con nhà nho học, sử kinh thầy thường
đọc, biết việc thánh hiền. Ḥ hơ, gặp
nhau em kết nghĩa liền, không chờ chẳng
đợi cho phỉ nguyền phụng loan…[5]
Tuy anh chèo cứng họng,
như tôi ngồi trong mui đă thấy khoái trá vô cùng.
C̣n ǵ sung sướng cho
bằng khi ḿnh nghe “người ta” vô t́nh nhắc nhở
tới ḿnh, ca tụng ḿnh trên ḍng sông lờ lững ?…
- Chắc anh “phọt phe”
rồi phải không anh đ̣ ?
Anh ta đáp xuôi xị:
- Ư mèn ơi, tôi mới
thấy con nhỏ ḥ lanh hết chổ!…
- Nầy anh, tôi nói thiệt cho
anh nghe. Sao
tôi nghe giọng ḥ của con nhỏ ấy tôi “mê” lắm.
Anh biết tôi làm thầy giáo chớ. Nghe nói nó đang t́m
kiếm kết duyên với chúng tôi, tôi cảm động
quá anh à. Anh làm thế nào cho tôi thấy mắt “nó” một
chút, “một chút xíu” thôi, rồi ḿnh đi… được
không?
- Có khó ǵ thầy, tôi kêu nó
cặp ghe lại hỏi mồi lửa, thầy muốn
nh́n bao lâu lại không được!
Rồi anh lập tức lên
tiếng:
- Chị ḥ ơi… chị ḥ !
Làm ơn cặp ghe cho mồi nhờ chút lửa, chị ḥ
!…
Thấy bóng ghe chèo tới là
tôi phấn khởi trong ḷng, ḅ ra ngoài ḍm lom lom.
- Ghe cặp chiếc đ̣, tôi
càng thêm hồi hộp. Ôi ! Tiếng ḥ như thế, c̣n
người làm sao!…
Tôi h́nh dung một cô thôn nữ
mày liễu má đào, có vóc ḿnh thon thon, có bộ tịch
khả ái…
Bỗng anh chèo đang ngồi
nghỉ tay, giật ḿnh đứng phắt dậy. Trong
chớp nhoáng, anh bị một tên lực lưỡng
thộp ngực anh, đưa ngọn dao ngang cần
cổ:
- Nín mắt, la lên th́ cụt
đầu ! Tao không động tới mầy đâu !
C̣n tôi… chao ôi, tôi cũng kinh
hồn lạc phách, rủi may phó mặc cho trời… Tôi
chưa kịp nhảy xuống sông th́ đă bị hai tên
khác đè cứng dưới ván đ̣. Tôi giợm la
nhưng một thằng trong bọn “ấn” cho tôi một
cùi chỏ vào hông, đau lồng ngực lồng gan,
nằm trợn trắng như chết nửa
người.
Đă thế, tiếng con nhỏ
ḥ c̣n trêu gan trong mui nhỏ:
- Chú Bảy coi có con đàn bà
nào ở trong mui, đè cổ lột cho tôi sợi dây
chuyền!…
Chợ hay quê ?
Miễu bà Chúa Xứ tự
nhiên biến thành một hí trường.
Nhưng có mấy ai để
ư đến đâu.
Người ta nói dân thị
thành hay lạnh lùng mà đúng lắm vậy.
Cà mau ngày nay không c̣n là Cà Mau ba
chục năm trước. Ba chục năm trước,
trời vừa đổi sắc tím là “Ông thầy”,[6]
bách bộ khoan thai ở bên kia sông Quan Lộ.
Cái thời “dă man” ấy
chỉ c̣n vang trong mấy câu chuyện ly kỳ mà các bà
mẹ thường kể lại cho những cậu… con
nghịch ngợm hay đi bắt chim, hóot cá thia thia trên xóm
miễu Bà:
- Gần miễu Bà đó
biết không? Bên cây da mà tụi bây thường tới phá,
hồi đó ông Thầy có lần móc họng mấy
người đi câu.
Miễu Bà ở bên kia sông Quan
Lộ. Mà bên kia sông Quan Lộ nay là xóm… Bến xe đ̣.
Hơn trăm nóc nhà, đèn
điện, máy nước, quán cháo Tiều, một nhà bán
ḥm, và… cái miễu ở chính giữa.
Hàng năm, các ông cụ có
tiền mướn hát bội cho Bà xem. Cho Bà xem, nghĩa là
cho cả xóm xem.
Ông chủ nhà bán ḥm là hội
trưởng hội Miễu Bà. Ông là người kinh doanh.
Ông biết nghĩ đến cái lợi cho làng nước.
Ông nghĩ rằng xóm càng ngày càng đông sống yên ổn
cũng nḥo Bà phù hộ. Mà càng đông cần phải có
những cuộc vui, phải sống như người ta
sống nơi đông đảo.
Muốn ăn uống ? – Có
quán cà phê !
Muốn cúng kiếng ? – Có
miễu Bà !
Không muốn sống nữa ?
– Ông là chủ bán ḥm .Nhưng sống vui vẻ, không
phải chỉ ăn mà thôi.
Cần phải có những
cuộc vui khác: Hí trường là một sự tối
cần; chứng cớ, mỗi lần hát cho Bà xem,
người hàng xóm đều đến xem ngập miễu!
Ông bắt đầu tể
tiền cất một cái rạp lớn để chứa
cho được nhiều khán giả!
Thằng Tám Méo vác mướn
cũng hỉ hả góp hai cắc:
- Rồi ḿnh tha hồ
đến coi hát có lổ lả ǵ đâu?
Mỗi năm, mỗi
mướn gánh hát. Mấy thằng cha Bầu Kẹo ở
Rạch Bầu, Bầu Ngọ ở Cái Keo, Bầu Ba ở
Ông Muốn… hè nhau lên giá kèo nài nhiều…
Cái ǵ mà một đêm hát
tới hai chục, bộ muốn cắt họng
người ta sao chớ? Ông chủ bán ḥm tức giận.
Ông họp các hội viên lại bàn rằng:
- Bây giờ tôi định làm
như vầy để cho tụi Bầu Kẹo… nó
hết hạch sách. Tôi xuất vốn mướn đào
kép, mua đồ… nghĩa là lập một gánh hát riêng,
để đi hát các nơi, chừng ngào tới kỳ vía
Bà, tôi cúng mấy đêm… các ông nghĩ sao?
- Th́ c̣n nghĩ sao nữa? Ông
hội trưởng là người kinh doanh. Lập một
gánh hát bội là chuyện… tiền bạc! Mà tiền
bạc! Nhờ trời nhờ Diêm chúa – Ông có khá khá đôi
chút!…
Miễu Bà tự nhiên lại biến
thành một hí trường. bởi ông chủ ḥm nghĩ
rằng – đúng hơn ông nghĩ rằng “hát bội làm
tội người ta” - để tụi nó đi chơi
bời, đĩ thoả, bài bạc hư thân. Ḿnh muốn
ích nước lợi dân, đi hát đâu chi cho xa, mỗi
đêm ở đây mỗi hát, vừa… cho Bà xem, vừa
cầm chân đám dân “thân yêu”. Tốn bao nhiêu? Một
cắc bạc?
- Các ông có bằng ḷng cho tôi làm
như vậy không?
“Các ông” đây là các hội
viên. Các ông thấy cái ư ấy “tự nhiên” quá, mà cái dân thành
thị kia cũng không ai để ư đến.
Năm nay hát xong ba đêm cúng
Bà, người ta thấy một tấm bảng giấy
đỏ dựng trước miễu:
Đêm nay chúng tôi viễn tuồn:
“Quê dun đạo: Tuần thật là ly kỳ. Dô cửa:
một cắc bạc!
Rồi tới đến,
người ta đem theo cắt bạc bỏ vào cái thùng
của cộ Tám, con ông Hội trưởng và vô để
xem một đệ nhất anh – hùng của thời Tam
Quốc.
Đêm sau, rồi đêm sau…
Thói quan, thằng Tám Méo cũng
quen. Cả xóm đều quen… Cả Cà Mau quen luôn ! Hát bóng
nói ở các tỉnh lớn dễ đă được hoan
nghinh hơn !
Một tháng, hát không nghỉ
đêm nào. Nhưng măi rồi tuồng nó cũng hết: Huê
– Dung - đạo, Ông thất thủ Hạ - B́, Trảm
Trịnh Ân, Dự Nhượng đả long bào, Bao Công
xử án Quách Hoè, Phụng Nghi Đ́nh, v.v… rồi cũng không ai
cấm: Huê dung đạo, Bao Công xử án Quách Hoè, Phụng
Nghi Đ́nh, v.v… trở lại đâu! Và anh kép Tám Bí
làm Ông hay làm sao, c̣n cô đào tư Bé làm Điêu Thuyền mới
mê mẫn khách mày râu đi coi lần thứ mười
đă thấy chán chưa mà!
Nhưng ông Bầu Hai – Ông
chủ bán ḥm – là người kinh doanh. Năm một ngàn
chín trăm ba mươi ba… Một hôm, cái bảng giấy
liễn đỏ, đầy đặc những chữ
to to bất chấp chánh tả:
Bổn ban mới tiển
được nhiều cô đào khát. Ngoài cô Tư Bé, Xáu
Liệu, Ba Kiêm, c̣n tất cả 9 đàu. Luôn tiên, xửa
rạp lại, chia hạn: Thượn hạn: 5 cắt,
hạn nhứt: 3 cắt, hạn nh́: 2 cắt, hạn ba: 1
cắt… Và mỗi chiều thứ bảy có đêm
đặt biệt cho quư Ông, quư Thầy, có chưn
bươm bướm. bổn ban đă chỉn đốn
theo cải lươn. Bỏ qua rất uổn…
Nếu đă có “quí thầy”
chiếu cố, thời “chỉn đốn” theo Cải
lương là phải.
Trống chầu không hồi
ba nữa. Chiều chiều, mấy đứa nhỏ con
hàng xóm giành nhau cái trống c̣n một mặt, và hè nhau
nện “tành tạch, tành tạch”.
Ban nhạc mới mời
được tay đờn ḱm sành Vọng cổ.
Cây kèn đại vốn chát
chúa đă biết đưa hơi bằng giọng rè rè run
run của anh Thôi
Tử trong câu nhập Vọng cổ: “Giă
bạn lên đàng…”. Tiếng kèn đại mà nhồi
chữ “đàng” th́ phải biết, nó lâm ly đặc
biệt!
Dầu sao, người ta không
c̣n thấy những ông tướng thổi kèn đưa
cái lưng trùi trụi, ngồi trên sân khấu nữa. “Đúng
tám giờ rưỡi”, - ấy là cái bảng giấy
đỏ nó quả quyết như vậy, - thay v́ ba
hồi trống cơm ra tuồng, có tiếng chuông rung…
lạch cạch, leng keng… y như Cải lương.
Một thằng quân mặc áo
thêu rồng cũ, lụng thụng, đội măo xanh, ra
chào “quí khán quan đă hạ cố đến giúp bổn
ban”… và cứ “tái bản” câu ấy đến mươi
lượt trong vài lời cảm tạ.
Quư khán quan? cứ đến
một buổi chiều thứ bảy đển xem
đêm hát đặc biệt có chưng bươm
bướm, người ta đều thấy có nhiều
quan kư lục, một quan thầy thuốc, một quan phán,
và một quan… “giượng mụ”, chồng của cô
mụ tỉnh thành!
Nói là chiều thứ bảy
mới có đêm hát đặc biệt nhưng mấy quan –
h́nh như họ có hẹn ḥ với nhau - Cứ đến
chín, mười giờ mỗi đêm là đă ngồi quanh
cái bàn con đặc giữa rạp, sát sân khấu, nhâm nhi
mấy ly rượu bia.
Mấy quan h́nh như cũng
thưởng thức tài nghệ của “chín đào”, và
đă để ư đến cô đào chánh tư Bé, một
ngôi sao sáng của Bầu hai, nên mỗi lần tư Bé ra
tuồng, mấy quan vỗ tay rầm lên, mà lại cón móc
bốp liệng mấy “con công” lên để thưỏng
lúc tư Bé hay đặc biệt nữa là khác.
Mỗi lúc như vậy, cô tư Bé không quên
nghiêng ḿnh, mỉm cười như hoa nở, đưa
cặp mắt t́nh tứ xuống mấy quan rồi
uốn éo tung hô:
- Bá, bá phúc!
Nhưng, ngoài mấy quan ra, có
những quan đẳng cấp thấp hơn, v́
người ta vẫn nhớ rằng rạp hát ở
giữa xóm xe đ̣!
Các ông tướng xe đ̣
cũng không kém, cũng thưởng thức tài nghệ
đào kép, cũng có lúc vỗ tay, lúc la rầm lên:
- “Ra quô” cô tư Bé!…
* * *
Một buổi thứ
bảy. Tuồng Phụng nghi đ́nh. (Quái lạ! sao cứ
luôn luôn ở vở tuồng này!) Cô tư Bé mà đóng
vai Điêu Thuyền, th́ không phải nhắc thêm lần thứ
hai nữa, nó mùi mẫn đến thế nào ấy!
Nhưng người ta
đồn rằng tư Bé đă được một
quan “chiếu cố” đến hơn nhiều một chút,
và đă sắp sanh một… quan con!
Bởi thế nên đêm
ấy, một cô đào khác đóng vai Điêu Thuyền.
Nhưng, khốn nổi cô đào thế vai ấy không
được hân hạnh có cái nhan sắc chim sa cá lặn.
Các quan h́nh như là không
bằng ḷng cho lắm.
Các ông tướng xe
hơi cũng thấy ngay tẩy rằng cô Điêu Thuyền mà
“đẹp” như vậy, th́ thằng cha Lữ Bố
nếu có say mê, chắc là tại nó … buồn ngũ quá
rồi!
Nghĩ như vậy, một
ông “tướng” tưởng nên nói cái ư nghĩ thành
thật của ḿnh ra cho mọi người cùng biết.
Lúc Điêu Thuyền vuốt ve
Lữ Bố, ông tướng xe hơi cười to lên,
phùng mang thổi một cái hoét, rồi la:
- Ê! Cái mặt Chung Vô Diệm!
Cô Điêu Thuyền có lẽ
thấy rằng ông tướng dốt truyện Tàu quá
lẽ, dám lộn Điêu Thuyền với Chung Vô Diệm, nên cô
cũng không ngần ngại ǵ, ngưng hát một chút, quay
mặt ra khán giả, nói ngay ư tưởng ḿnh bằng
một câu trả lời:
- Xin lỗi quư ông, quư bà,
khốn nạn cái anh nào nói tôi là Chung Vô Diệm!
Các tṛ ơi,
Thầy phen nầy thọ
tử
Bạn hăy cùng tôi “du lịch”
một ṿng xuống các miệt “hóc Bà Tó”, “chó ăn đá, gà
ăn muối”, để t́m những cái lạ lùng, lạ
lùng cả đến cái tên: Băi Háp, tắc Ông Do,
mương Chệc Kịch, Tham Trơi, U Minh, Dớn, v.v….
Ở đồng quê, thế
mà lắm chuyện.
Nhưng hăy khoan, ta tạm
dừng chơn nơi xóm Kiến Vàng để biết thêm
chút nhơn t́nh thế thái.
Thuộc làng Tân Hưng Đông,
ấp Kiến Vàng chia ra làm hai xóm. Thiên hạ hai bên thù nhau
từ đời nào không biết mà hồi ấy họ
gh́m nhau như địch thủ.
Và không khác hai nước
đương chiến, họ t́m mọi cách để
ngầm giết nhau. Họ nuôi râu cọp, t́m đủ
thứ thuốc độc bỏ trong nước, trong món
ăn, thuốc nhau chết như rạ. Thành ra, ở
đó không ai dám tin ai, nhà nào nhà nấy giữ ǵn từ lu
nước món ăn, tiệc tùng đâu mời cũng không
dám tới.
Một ngày ở đó là
một ngày phập phồng.
Tuy nhiên, trong các nghề
kiếm ăn, nghề “dạy học” vẫn giữ
một địa vị quan trọng ở đồng,
đâu đâu cũng không dám coi thường. Thế nên, là
“thầy giáo” th́ ở đâu cũng dám tới.
Con nít ở Kiến Vàng là con nít
đủ tài thao lược.
Trên bộ, chúng ruồng
tất cả rừng rậm chông gai, bắt rắn như
bắt ếch, bắt chim như bắt gà, thôi th́
đạo binh của rừng bụi đều kinh
hồn mất vía.
Buồn? Chuíng có thể lôi
đầu mấy con rắn hổ ngựa từ trên cây
xuống… đá như đá ba lông, chúng có thể nắm
chóp hết những con kỳ nhông rắn mối ra “rô ti…”
nhậu rượu!
Dưới nước,
tốp khác không kém, chúng là một đoàn thủy quân bơi
lội “dàng trời ban”. Liệng chúng xuống bùng binh sâu
hoắm tối ngày chúng không uống một chút nước,
không biết lạnh, mà lại c̣n ṃ lên một mớ tôm cá
mới tài! Chúng lại thường theo cha chú ra vàm sông Mang
Giỗ ban đêm soi sấu, vớt những con sấu con
đem về cho… cắn lộn.
Khi chán chê rồi, chúng vẫy
tay một cái là vật đầu đem nướng!
Khốn nạn, tôi lại
lọt đến cái xóm ghê hồn ấy! Đă bảo
thầy giáo ở đâu cũng dám tới mà! Điều nên
biết là trước tôi, đă có không biết bao nhiêu
thầy v́ chịu không nổi lũ con nít “trời đánh”
ấy phải xuốn gói bỏ trường mà trốn
đi.
Nhưng rồi thằng “thiên
lôi chạy mặt” như tôi cũng cai quản
được cả đoàn. Dầu vậy, trước
khi làm Tổng tư lịnh cả hai bộ thủy và
lục quân ấy, tôi bị thử phép gần trầy v́
tróc vảy.
Nầy, lục quân: Hạ
thủ một con rắn hổ? Chúng làm bộ như
sợ sệt, viện đến tay thầy. Th́ “rụp”
một cái, thầy vỗ cửa hang “ḅm ḅm”, miệng làm
bộ lâm dâm câu thần chú “Án đà ra họng rị…”
rồi chĩa đầu con rắn đem lên!
Bắt con chim “bánh ích”.
Thầy là một tay bắn giàn thung thiện xạ!
Chúng quyết bắt Thầy
ra đồng trọn ngày chúa nhựt để bỏ
đói? Thầy vui ḷng móc củ bồn bồn, hoặc
bẻ trái dừa nước ăn cho no và c̣n mở
tiệc khao quân là khác nữa!
Nầy, thủy quân: Chúng
rủ thầy chèo ghe ra cửa biển chơi mỗi chúa
nhựt? Xa bao nhiêu thầy cũng vui ḷng cầm chèo lái. Vác
lưới đi đánh cá cháo, lặn cá dầy? Thầy
phóng xuống bùng binh trước nhứt.
Tắm, chúng muốn trấn
nước Thầy? Thầy là một con rái, hiên ngang
hoạt động dưới nước như trên
bờ!
Thế rồi, trong ṿng
một tháng, tôi nắm chắc chức Tổng tư
lịnh trong tay, các… tiểu anh hùng đều bái phục.
Thôi th́ mặc ai làm ǵ th́ làm,
tôi nằm tréo ngoảy ở nhà, muốn cá có cá, muốn
chim có chim, hô lên một tiếng là có đồ đệ
đến hầu.
* * *
Một hôm, có anh thợ săn
trong ấp bắt được một con “heo cấn”
(heo rừng có chửa). Anh mổ bụng lấy bọc con
ra đem tiềm thuốc bắc. Đấy là món ăn quư
nhất mà tôi đă thèm thuồng từ lâu.
Anh cho mời… thầy giáo!
Lần thứ nhứt, tôi
đi dự tiệc nhà người. Bữa ấy tôi ăn
hết nửa con heo con đỏ ói trong bọc, và nhậu
trên một cốc rượu rừng, pha mật ong.
Về nhà bỗng dưng tôi
thấy tối tăm mày mặt, ruột thắt gan bào.
Thôi chết rồi, chắc
chắn là tôi bị trúng thuốc độc!
Mỗi lần tưởng
tượng đến cả ngũ tạng lục
phủ tôi sẽ liệt bại rồi chết lần ṃn,
tôi mê sảng nằm kêu rên không ngớt miệng.
Học tṛ lũ lượt
đến đứng quanh giường.
Tôi nh́n qua một lượt,
nắm tay từ đứa, ứa nước mắt
trối dài:
- Các tṛ ơi! Thầy phen
nầy thọ tử!
Anh thợ săn nghe tin
cũng khiếp vía, chạy rước được
một vị danh y về khám bịnh.
Sau khi nghe tôi thuật
chuyện, ông thầy chăm chú xem mạch xong, vuốt râu
cười kh́:
- Tôi nói thầy đừng
giận. Hôm trước, trong ḿnh thầy hơi yếu,
thầy lại ham… ăn “heo cấn” quá nhiều. Vón là
một thức ăn hết sức mát, t́ vị thầy
không chịu được, nó hàn, và sẵn thầy
uống rượu rừng không quen, hai thứ đó nó
“vật” thầy “sập” chớ ở đây ai “thuốc”
thầy làm chi!
Sanh nghề tử
nghiệp
Bước b́nh bông đưa
tôi đến một nơi sằn dă quê mùa ở tận
cùng mũi đất của bán đảo Đông Dương:
Năm Căn!
Dân Sài G̣n hay hầu hết dân
“miệt trên” khi nghe đến tên, ắt hẳn trong
đầu đều có ư tưởng cao cả về tŕnh
độ của ḿnh trên bước tân tiến… và tự
nhiên thấy có cái thú chế giễu những cách ăn
ở quê mùa bằng mấy tiếng: Dân Năm Căn
phải không?… Ở Năm Căn phải không…
Nhưng bạn ơi! Năm
Căn bây giờ không c̣n là quê mùa nữa. Ngoài những xóm ḷ
than rộng lớn, thiên hạ đông đúc, cờ
bạc, sa ngă, c̣n lắm cái lạ lùng, lạ lùng
đến chuyện tôi kể cho bạn nghe về “Mét
Văn Quang” (Maitre Văn Quang).
Ghê chưa? Chỉ vỏn
vẹn tiếng “Mét Văn Quang” bạn cũng đủ
thấy Năm Căn ngày nay đă khác lắm rồi.
Nhắc đến “Mét Văn
Quang”, tôi phải nhớ ngay đến các bác họ “Mét”, và
cũng không thể quên được những mánh khoé
bịp đời của hạng người mang
khiếng trắng có đủ thứ h́nh “tay nâng càm”, “tay
chống nạnh” đăng trên các báo.
Hạng người ấy
tự xưng là “Mét” hoặc “Giáo sư”. Nhưng nói cho
phải, mấy ông “Giáo sư” trên đây đáng liệt vào
bậc “sư bác” trong làng bói, v́ họ sống nhiều khi,
sang như ông Hoàng: nay ở “ô ten”, mai ở phố lầu.
Họ c̣n một đàn em
sống vất vả lắm, một đàn em không tên
tuổi, không “mét”, không “bờ rồ phết xơ”… mà
lại là những cánh bèo thả trôi theo ḍng, từ kinh thành
ṃ đến làng mạc hẻo lánh, từ góc chợ
đến những… hang cùng ngơ hẻm.
Họ cũng thường
“tấp” vô ô ten, nhưng một thử ô ten rẻ tiền:
chốn “yên hà cuộc tỉnh say”!
“Mét Văn Quang” của tôi không
phải là bực đàn em ấy, mặc dầu “Mét”
lập “đại bản dinh” ở tận chốn hang
cùng: Năm Căn.
“Mét” quả là một “thiên
tài”!
Cái câu quảng cáo dán
trước bàn: “Một thiên tài đă từng được
Tây, Nam khen tặng” chắc hẳn là câu nói không ngoa!
Mà… “Mét Văn Quang”! Than ôi! “Mét
Văn Quang” ngày nay đă ra người thiên cổ mất
rồi! Nhưng đây là đoạn chót của câu
chuyện và các bạn sẽ cho phép tôi bắt chước
nói như nhà văn hào C. Farrère trong một chuyện
ngắn: “Ai lại bắt đầu câu chuyện bằng
cái kết cuộc bao giờ?”
“Mét Văn Quang” như tôi
đă nói, là người có tài: Tài đoán số, tài coi
tướng, coi tử vi, mà đặc biệt hơn
hết là tài “lẻo mép, lanh mồm”!
Th́ đây, có lần tôi
đến viếng “Mét”.
“Mét” hỏi:
- Ông sanh năm nào, tháng nào, ngày
nào?
Tôi vừa trả lời
dứt là Văn Quang hí hoáy viết không đầy một
phút, đă nói những cái quá khứ… đến nhiều lúc
tôi phải ngạc nhiên tưởng rằng tất
những ngày qua rồi vẫn c̣n ghi trên tṛng mắt tôi, mà
hôm nay Văn Quang chỉ có đọc lại thôi.
Ấy thế, “Mét Văn Quang”
được cả dân Năm Căn hâm mộ đồn
đi mấy dặm… rừng: Nhưng Miên, Tân Ân, Hàng
Vịnh v.v…
Nhưng đấy, lắm khi
có người chỉ vừa nói ngày sanh, là Văn Quang
đă mở hết tốc lực chạy… để
rồi không đi đến đâu cả.
Và ở vào mấy
trường hợp khác, vài ông khách “hâm mộ” phải
ngạc nhiên v́ cha mẹ họ vẫn sống sờ
sờ và Văn Quang buộc rằng đă mồ côi, mồ
cút; hoặc vẫn chất phác làm ăn mà “Mét” lại
bảo có lần “đánh trộm người hàng xóm”
để rồi c̣n tiên đoán cho họ nhiều “tai
vạ” khác nữa.
Khách vừa mở miệng
cải th́ “Mét” đă chận họng bằng câu:
- Tôi đă rao trước
rồi kia mà, ông không thấy tấm bảng đề: “Nói
không tư vị” hay sao?
Nhưng nếu khách có là
một người mồm mép lắm:
- Ậy mà những lời
“không tư vị” của ông đều trật bét hết!
Tức th́ Văn Quang lỏ
cả hai mắt tṛng chừng như lọt ra khỏi
tṛng:
- Trật à? Tôi mà đoán
trật?
Và khi hỏi kỹ lại… th́
Văn Quang xuưt xoa bảo:
- À! tại tôi đoán lộn
tuổi khác, xin lỗi ông đấy!…
Nhưng cái lỗi ấy không
phải ai cũng tha được như những nơi
có “khuôn phép” chốn thị thành.
Thế là “Mét Văn Quang” có
lần bị người ta bắt đền tội.
Người ấy là một vị đại điền
chủ có thể lực, keo kiết và tàn nhẫn, ở
làng kế cạnh.
Một hôm ông đến
viếng “Mét Văn Quang” với tất cả cái keo
kiệt và tàn nhẫn.
Văn Quang thấy mặt ông,
ngang nhiên hỏi:
- Ông mấy tuổi?
- Bốn chục.
Văn Quang không hỏi thêm
nữa, có lẽ cái tuổi “bốn chục” nó đủ
gợi cảm cho nguồn… hứng rồi, nên dơng dạc
bảo:
- Ông là người thất
tín! Cách đây 13 ngày ông lừa bạn ông để lấy
một số bạc ngàn… V́ vậy tôi quả quyết hai
ngày tới đây ông sẽ bị nắm chóp…
Ông điền chủ hốt
hoảng, mặt bổng nhiên nổi giận hầm
hầm lên. Ông sùi bọt mép, chẳng nói chẳng rằng,
với cái tàn nhẫn bấy lâu, ông vụt nắm lấy
“Mét Văn Quang” tặng một “cú đ́a rét” như các nhà vơ
sĩ tặng nhau trên trường diễn vơ, rồi ông
đấm đá “sặc cà rây”.
Văn Quang la vói:
- Tôi đă bảo “không tư
vị”, “không tư vị” kia mà!
- Ừ th́ “không tư vị”…
Bốp!… Bốp!…
Chúng tôi đứng ngoài
bất nhẫn lắm, nhưng có người nào có dám
“nhào” vô cho mang vạ, ai cũng biết - trừ “Mét Văn
Quang”, lẽ cố nhiên – ông ấy mạnh như thần!
- Vậy mà cũng đoán
số! Sao mầy không đoán cái số mầy…. chết
về tay tao, thằng kia?…
Hai hôm sau, “Mét Văn Quang”
đoán số ḿnh không sống nổi nữa, nên đă trút
linh hồn tại xứ Năm Căn: cái xứ mà “Mét”
đă phụ vào một chút công làm trôi mất tiếng quê
mùa!
Hết
Ghi chú:
[1] Một tướng
cướp lừng danh ở miệt đó.
[2] Con heo, theo ngôn ngữ của
ông đồng, bà cốt.
[3] Một loại thơm
(dứa).
[4] Tróng: cái tróng: gông đóng, tróng
mang.
[5] Mấy câu ḥ trong bài này tôi chép
hối hả trong mui ghe theo giọng ḥ đối đáp,
có thể sai đi ít nhiều. Nhưng tôi không sửa
được v́ không có nguyên văn, xin nhờ bạn
đọc nào biết rành bổ chánh giùm cho.
[6] Cọp